pages

Dec 26, 2024

“Thánh nổ” Việt Tân lại nói càn

           Tre việt – Mới đây, trong một phát biểu, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng có đề cập vấn đề cung cấp trợ lý ảo cho công chức trong quá trình làm việc. Dựa vào nội dung này, ngày 25/12, trên trang facebook Việt Tân đăng bài “Bộ trưởng lại nổ nữa rồi” có nội dung phê bình các phát biểu của ông về khả năng dẫn đầu của Việt Nam trong các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, triển khai mạng viễn thông 5G, v.v. Việc dùng cụm từ “thánh nổ” để ám chỉ sự phóng đại, xa rời thực tế của ông Hùng là không chính xác vì.


Trước hết, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng là nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược về công nghệ. Trong nhiệm kỳ làm Bộ trưởng, Ông đã có nhiều giải pháp tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ đẩy mạnh các chương trình, dự án về chuyển đổi số, công nghệ 5G và trí tuệ nhân tạo, thu được nhiều kết quả tích cực. Trong chuyển đổi số, Việt Nam đã thực hiện một cách toàn diện, tập trung vào ba trụ cột: chính phủ số, kinh tế số, và xã hội số. Chính phủ đã đưa ra Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, nhằm thúc đẩy nền kinh tế số, dự kiến đóng góp vào nền kinh tế nước ta 20% GDP. Trên cơ sở đó, thúc đẩy chính phủ điện tử, chính phủ số, hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt, giáo dục trực tuyến; xây dựng Cổng Dịch vụ công Quốc gia năm 2019 đã cung cấp hàng trăm dịch vụ trực tuyến,… giúp tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng và giảm thời gian xử lý hồ sơ.

Với mạng 5G, Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu trong việc thử nghiệm và triển khai tại khu vực Đông Nam Á. Các doanh nghiệp viễn thông lớn như Viettel, VNPT và MobiFone đã thử nghiệm mạng 5G từ năm 2020. Việt Nam đã tự sản xuất được nhiều thiết bị 5G để giảm phụ thuộc vào các nhà cung cấp quốc tế. Tập đoàn Viettel đã thử nghiệm thành công mạng 5G tại các khu vực trung tâm Hà Nội và TP.HCM, cho phép người dân trải nghiệm tốc độ internet siêu nhanh, với tốc độ đạt tới 1-2 Gbps. Điều này mở ra cơ hội cho các ứng dụng công nghệ cao như nhà thông minh, xe tự lái, và y tế từ xa.

Trí tuệ nhân tạo được coi là lĩnh vực ưu tiên trong chiến lược chuyển đổi số của Việt Nam. Chính phủ đã khuyến khích nghiên cứu và phát triển AI, với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm AI tại khu vực ASEAN. Các công ty công nghệ Việt Nam như FPT và VinAI đã đạt nhiều thành tựu đáng kể. Nền tảng AI của Tập đoàn FPT, đã cung cấp giải pháp xử lý giọng nói và chatbot tự động, hỗ trợ các doanh nghiệp cải thiện dịch vụ khách hàng. VinAI đã phát triển công nghệ nhận diện khuôn mặt được ứng dụng rộng rãi trong các hệ thống an ninh và dịch vụ công cộng.

Vùng với đó, ông Hùng là nhà lãnh đạo có khả năng truyền cảm hứng và động lực cho cộng đồng. Trong thời đại toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt, một quốc gia cần những nhà lãnh đạo dám nghĩ lớn và hành động quyết liệt. Trong đó, việc truyền cảm hứng và thúc đẩy lòng tin của cộng đồng là yếu tố quan trọng. Những phát biểu táo bạo của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng là cách Ông tạo động lực cho doanh nghiệp và xã hội Việt Nam. Ông không ngần ngại nói về khát vọng lớn, điều này không đồng nghĩa với “nói khoác”, mà là sự khích lệ một quốc gia còn nhiều tiềm năng nhưng đôi khi thiếu tự tin. Lịch sử cho thấy, những nhà lãnh đạo thành công thường là những người dám mơ lớn và hành động để biến ước mơ thành hiện thực. Ví dụ, năm 1988, khi mới thành lập, ông Trương Gia Bình đã ấp ủ giấc mơ đưa FPT trở thành tập đoàn công nghệ hàng đầu Việt Nam và vươn ra thế giới. Trong một thời điểm mà công nghệ thông tin còn khá xa lạ tại Việt Nam, ông Bình đã nhìn thấy tiềm năng và sức mạnh của công nghệ trong việc thay đổi xã hội và nền kinh tế. Ông đã định hướng FPT trở thành doanh nghiệp dẫn đầu trong cuộc cách mạng chuyển đổi số; xem đây là cơ hội phát triển của doanh nghiệp, là trách nhiệm với quốc gia. Cho tới hôm nay, doanh nghiệp này đã có trên 30.000 nhân viên và thàng trăm chi nhánh trên thế giới, năm 2023, doanh thu là 52.617 tỷ đồng, lợi nhuận là 7.788 tỷ đồng, đóng thuế cho Nhà nước là 1.415 tỷ đồng, là doanh nghiệp lớn thứ 3 của Việt Nam.

Những thành tựu mà ngành công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đạt được dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng là minh chứng cho thấy Ông là một nhà lãnh đạo có tầm nhìn và khả năng thực thi, không phải là người “nói khoác mạnh mẽ”. Và, phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng là từ thực tiễn, hoàn toàn vì sự phát triển của đất nước, đâu phải “thánh nổ” như Việt Tân – những kẻ chuyên “bới móc”, nói càn, hại dân, hại nước./.


Dec 24, 2024

Kiểm định xe máy là đang ủng hộ xe máy điện của VinFast?

          Tre Việt - Trong thời gian gần đây, việc đề xuất kiểm định định kỳ xe máy gây ra nhiều tranh luận trong dư luận. Cùng với đó là việc Công ty cổ phần VinDT của tỷ phú Phạm Nhật Vượng ra mắt trung tâm đào tạo, sát hạch lái xe thì trên trang facebook của Việt Tân có ý kiến cho rằng, quy định kiểm định này nhằm “ủng hộ xe máy điện của VinFast”, vì xe máy điện không phải kiểm định khí thải. Khi phân tích kỹ quan điểm này, không có đủ căn cứ thực tế, logic và có nguy cơ tạo hiểu lầm về chính sách.

Để làm rõ, trước hết, ta cần hiểu rằng, xe máy sử dụng động cơ xăng, nhất là các xe cũ, thường thải ra lượng lớn khí độc hại như CO, NO2, SO2 và bụi mịn, rất có hại cho cơ quan hô hấp của con người. Việc kiểm định xe máy, đặc biệt là kiểm tra khí thải, sẽ giúp loại bỏ khỏi lưu thông những phương tiện không đạt tiêu chuẩn nhằm mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm không khí, góp phần bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng. Bên cạnh đó, kiểm định còn giúp phát hiện các hệ thống, bộ phận không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật, như: phanh, đèn, lốp xe,... sẽ giảm nguy cơ tai nạn. Đây là một chính sách phổ biến ở nhiều nước trên thế giới nhằm đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông. Như vậy, việc kiểm định không phải để hướng đến thúc đẩy bất kỳ sản phẩm cụ thể nào mà tập trung vào lợi ích cộng đồng, bao gồm môi trường và an toàn giao thông.

Hiện nay và trong những năm tới, do không phải kiểm định, không bị chế tài hạn chế nên xe điện có tiềm năng phát triển tốt hơn. Nhưng việc hưởng lợi là bình đẳng cho mọi đối tượng; xe máy điện VinFast không phải là đối tượng duy nhất; xe máy điện từ các thương hiệu khác, cả trong nước và quốc tế, như: Pega, Dat bike, Osakar,… cũng được hưởng lợi từ các chính sách khuyến khích giảm khí thải. VinFast, với tư cách là doanh nghiệp sản xuất xe điện lớn tại Việt Nam, có sự hiện diện mạnh mẽ, nhưng các chính sách khuyến khích xe điện không nhằm mục tiêu thúc đẩy riêng họ mà tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho tất cả các hãng xe. Nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm Việt Nam, đang chuyển dần sang phương tiện thân thiện với môi trường như xe điện. Đây là xu hướng không thể đảo ngược nhằm giảm ô nhiễm và bảo vệ trái đất, không chỉ riêng VinFast mà tất cả các hãng xe điện đều được hưởng lợi từ chính sách này.

Quan điểm “kiểm định xe máy là để ủng hộ xe máy điện của VinFast” không có đủ căn cứ và mang tính suy diễn, không chính xác. Điều đó có thể khiến người dân hiểu lầm rằng: kiểm định xe máy không vì lợi ích cộng đồng, mà phục vụ lợi ích kinh tế cho một doanh nghiệp. Điều này làm suy giảm niềm tin của người dân vào chính sách của Nhà nước. Quan điểm sai lệch này có thể dẫn đến phản ứng tiêu cực đối với chính sách giảm khí thải, làm chậm quá trình chuyển đổi sang phương tiện sạch và bền vững hơn, gây hại cho môi trường và sức khỏe cộng đồng. Do đó, Người dân cần tiếp cận thông tin từ các nguồn đáng tin cậy, tránh hiểu lầm và lan truyền thông tin sai lệch, gây ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách của Nhà nước./.

Không thể bóp méo việc sắp xếp, tinh giản bộ máy của Đảng, Nhà nước ta

           Tre Việt - Lợi dụng việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết tâm đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về việc “Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, các thế lực thù địch, phản động đã đưa ra nhiều luận điệu xuyên tạc cho rằng: “... là cơ hội để các phe phái chính trị tái bố trí nhân sự theo hướng có lợi cho họ”. 

         Đây là luận điệu vu cáo, cố tình bóp méo sự thật, gây hoang mang, hoài nghi trong dư luận, chống phá chủ trương của Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc,... cần bị vạch trần, lên án, đấu tranh bác bỏ. Bởi vì:

Thứ nhất, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán, nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác cán bộ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Quán triệt, vận dụng tư tưởng đó, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Trong các văn kiện của Đảng đã xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả, xây dựng cơ cấu đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ, mà Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) là minh chứng điển hình.

Thứ hai, thực tiễn qua các giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đổi mới công tác cán bộ, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và coi trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng; tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Những năm gần đây, việc tinh giản biên chế, sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã được Đảng, Nhà nước triển khai đồng bộ, mạnh mẽ và thu được một số kết quả quan trọng, bước đầu tạo chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, như: tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn cồng kềnh; hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhiều cơ quan, bộ phận còn trùng lắp, chồng chéo; việc tinh giản biên chế mới tập trung giảm số lượng chưa gắn với nâng cao chất lượng; ngân sách chi vận hành bộ máy còn quá lớn (chiếm tới 70% tổng ngân sách chi tiêu thường xuyên của Nhà nước), v.v. Đây là nguyên nhân dẫn đến thất thoát, lãng phí rất lớn nguồn lực xã hội, giảm nguồn lực đầu tư cho phát triển. Do đó, những hạn chế, bất cập này nếu không giải quyết triệt để sẽ là lực cản kìm hãm quá trình đổi mới, phát triển đất nước.

Thứ ba, cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy việc sắp xếp, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị bảo đảm “tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả” không phải là chủ trương mới của Đảng, mà là phương thức tiến hành mới trên cơ sở tổng kết, kế thừa, bổ sung, phát triển quan điểm của các kỳ Đại hội Đảng trước đây cho phù hợp với thực tiễn sự phát triểnnhằm thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giảm chi phí nuôi bộ máy, ưu tiên nguồn lực cho phát triển đất nước, phục vụ nhân dân, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Như vậy, hoàn toàn không có chuyện Đảng, Nhà nước ta quyết tâm đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) “là cơ hội để các phe phái chính trị tái bố trí nhân sự theo hướng có lợi cho họ” như các thế lực thù địch, phản động đang rêu rao./.

 

 

 

VOA Tiếng Việt diễn trò xuyên tạc Nghị định số 126/2024/NĐ-CP

          Tre Việt – Ngày 24/12, trang facebook VOA Tiếng Việt đăng bài: “Giới hoạt động: Nghị định 126 về lập hội là “điểm nghẽn thể chế” cần loại bỏ”, lu loa rằng: “Nghị định 126/2024 về quản lý lập hội là một văn bản luật thể hiện rõ nhất “điểm nghẽn” trong thể chế chính trị của chính quyền cộng sản Việt Nam, đồng thời khuyến cáo Hà Nội phải ngay lập thay đổi để phù hợp với thông lệ quốc tế”.

Cần khẳng định, đây là luận điệu cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật, nhằm chống phá Đảng, chính quyền, gây ra sự hiểu lầm, hoài nghi trong nhân dân về việc bảo đảm, bảo vệ và thực thi quyền lập hội tại Việt Nam.

Chúng ta đã biết, ngày 08/10/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 126/2024/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động và quản lý hội thay thế Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/4/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP. Nghị định số 126/2024/NĐ-CP gồm 08 chương, 53 điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 26/11/2024.  

So với Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, quy định mới trong Nghị định số 126/2024/NĐ-CP đã nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong việc quản lý và hoạt động của các hội tại Việt Nam; đồng thời, quy định chi tiết các nội dung về thành lập, tổ chức hoạt động hội nhằm đảm bảo các tổ chức, cá nhân sẽ thành lập và hoạt động hội phù hợp với quy định của pháp luật, góp phần vào sự phát triển chung của xã hội. Điều đó được thể hiện trên một số điểm nổi bật đó là: Về đối tượng áp dụng, Nghị định số 126 áp dụng đối với tổ chức, công dân Việt Nam có liên quan đến thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về hội. Trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định đặc thù về tổ chức, hoạt động của hội khác với Nghị định này thì áp dụng quy định của pháp luật chuyên ngành đó. Nghị định này sẽ không áp dụng với các tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam; các tổ chức tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng; tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp theo quy định của Bộ luật Lao động. Việc thành lập hội, từ ngày 26/11/2024 phải đảm bảo các điều kiện như: tên gọi; lĩnh vực hoạt động chính không trùng lặp với lĩnh vực hoạt động chính của hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trong cùng phạm vi hoạt động; có tôn chỉ, mục đích, lĩnh vực hoạt động phù hợp quy định pháp luật; có điều lệ, có trụ sở, có đủ số lượng tổ chức, công dân Việt Nam đăng ký tham gia thành lập hội (trừ trường hợp luật, pháp lệnh có quy định khác), có tài sản để đảm bảo hoạt động của hội. Về cơ sở dữ liệu về hội: Nghị định mới có riêng một điều quy định về cơ sở dữ liệu về Hội phục vụ cho công tác quản lý nhà nước mà Nghị định 45/2010/NĐ-CP chưa quy định. Bên cạnh đó, tổ chức, công dân Việt Nam có nhu cầu thành lập hội phải thành lập ban vận động thành lập hội. Thành viên ban vận động thành lập hội là tổ chức, công dân Việt Nam tâm huyết, trách nhiệm, hoạt động trong lĩnh vực hội dự kiến hoạt động hoặc có liên quan đến lĩnh vực hội dự kiến hoạt động. Các thành viên ban vận động thành lập hội phải đảm bảo các điều kiện theo quy định tại Nghị định. Về thời gian đại hội thành lập là 60 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định. Quá thời hạn 60 ngày làm việc mà ban vận động thành lập hội chưa chuẩn bị kịp để tiến hành tổ chức đại hội thành lập, thì trong thời gian 15 ngày làm việc tính từ ngày hết thời hạn 60 ngày làm việc, ban vận động thành lập hội chủ động có văn bản gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị gia hạn. Quy định về các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, Nghị định dành một chương để quy định về các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ. Tại Nghị định này đã bỏ tên gọi hội có tính chất đặc thù và thay vào đó là hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ. Một trong những điểm nổi bật của chương này là đã có quy định về chính sách, chế độ đối với người làm việc tại hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ. Về thẩm quyền giải quyết các thủ tục về hội, Nghị định số 126 quy định cụ thể về điều khoản phân cấp thành lập và quản lý hội cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Nghị định số 126 cũng quy định một cách cụ thể trách nhiệm của từng bộ, ngành có liên quan, không còn quy định trách nhiệm chung chung như Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, v.v.

Như vậy, việc Chính phủ ban hành Nghị định số 126 là hết sức cần thiết, đã giải quyết được những vấn đề bất cập phát sinh trong thực tiễn khi thực hiện công tác quản lý nhà nước về hội; kịp thời thể chế các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về hội, cũng như giải quyết được những vấn đề không thống nhất giữa quy định của Đảng và quy định của pháp luật về quản lý hội. Dó đó, luận điệu xuyên tạc rằng: “Nghị định 126/2024 về quản lý lập hội là một văn bản luật thể hiện rõ nhất “điểm nghẽn” trong thể chế chính trị” mà VOA Tiếng Việt lu loa cần bị lên án và đấu tranh bác bỏ./.


Dec 21, 2024

Bác bỏ luận điệu xuyên tạc, phủ nhận truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam

            Tre Việt – Những ngày này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang long trọng tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm 80 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân. Đây là dịp để chúng ta ôn lại lịch sử hào hùng, oanh liệt, truyền thống quý báu của Quân đội. Thế nhưng, với mưu đồ đen tối, các thế lực thù địch lại trắng trợn, ra sức xuyên tạc những giá trị lịch sử, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta. Bằng những lời lẽ vô căn cứ, chúng bày trò “luận bàn” nhiều vấn đề liên quan đến mục tiêu, lý tưởng, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội ta. Chúng tập trung phủ nhận những chiến thắng của Quân đội dưới sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc về lòng trung thành của Quân đội với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; xuyên tạc mối quan hệ đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân của Quân đội với những lời lẽ hết sức phản động, phản khoa học hòng làm phai mờ hình ảnh tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Quân đội, chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Quân đội với Nhân dân, giữa Quân đội với Đảng và Nhà nước. Có thể nói, những luận điệu nêu trên là sự xuyên tạc, bịa đặt một cách trắng trợn, vô căn cứ, vừa phi lý, vừa phản khoa học, bởi lẽ:

Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời là thành quả tất yếu từ đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Đó là một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Quân đội ta sẵn sàng hy sinh phục vụ lợi ích của dân tộc, của giai cấp và của nhân dân Việt Nam; bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Trung thành với Đảng, trung với nước, hiếu với dân là những nội dung phẩm chất cơ bản, cốt lõi gắn bó chặt chẽ với nhau trong bản chất, truyền thống của Quân đội. Đây là mối quan hệ biện chứng, thống nhất nằm trong thuộc tính bản chất của Quân đội ta, không thể tách rời. Và, lịch sử cách mạng Việt Nam đã minh chứng: Quân đội ta không chỉ là công cụ, lực lượng chính trị tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà nước mà còn là chỗ dựa vững chắc của nhân dân, của dân tộc.

          Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta đã có những bước trưởng thành vượt bậc: từ những đội du kích phát triển thành một đội quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Từ một quân đội chỉ có bộ binh thông thường phát triển thành quân đội có đủ các quân chủng, binh chủng, được tổ chức, biên chế, trang bị phù hợp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Quân đội ta đã hoàn thành xuất sắc vai trò là lực lượng nòng cốt hỗ trợ quần chúng nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng; là lực lượng nòng cốt, cùng toàn dân tiến hành đấu tranh và giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân là vấn đề thuộc về bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam - quân đội cách mạng, quân đội kiểu mới, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.

          Và, không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu chống xâm lược, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, Quân đội ta còn là đội quân công tác, giúp đỡ nhân dân trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn. Với chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, bên cạnh nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, trong những năm qua, Quân đội luôn tích cực, chủ động phát huy vai trò là lực lượng chủ lực, nòng cốt trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, ứng phó, xử lý những sự cố và tìm kiếm cứu nạn. Lực lượng Quân đội trên khắp các vùng, miền của Tổ quốc luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm để đến giúp đỡ đồng bào, đồng chí. Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội trong phòng, chống dịch Covid-19, trong khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ,... thời gian qua là minh chứng khẳng định truyền thống, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của Quân đội “Vì nhân dân phục vụ”, “Vì nhân dân quên mình”.

Đó là những chứng lý đanh thép, vững chắc, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, là cơ sở để các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội giữ vững lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, chủ động sáng tạo, mưu trí dũng cảm, quyết chiến, quyết thắng, tiếp tục xây đắp truyền thống vẻ vang: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”; xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” mà nhân dân đã dành tặng, xứng đáng là Quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng./.

Dec 17, 2024

Việt Nam tái ứng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026 - 2028 là hoàn toàn xứng đáng

     

        Tre Việt – Ngày 16/12, trang facebook Đài Á Châu Tự Do (RFA) đăng status: “Nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế phản đối việc Việt Nam tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền của Liên Hiệp quốc nhiệm kỳ 2026-2028 vì hồ sơ nhân quyền tồi tệ của nhà nước độc đảng ở Đông Nam Á”. Cần khẳng định ngay, đây là chiêu trò xuyên tạc, phủ nhận kết quả, cùng những nỗ lực trong bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam mà RFA nói riêng và các trang mạng thiếu thiện chí vẫn quen thuộc sử dụng, nhằm hạ uy tín của Đảng, Nhà nước và chế độ ở nước ta mỗi khi Việt Nam tuyên bố ứng cử vào các cơ chế, tổ chức nhân quyền của Liên hợp quốc.

        Như thông tin được biết, ngày 12/12, phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc tổ chức Lễ công bố Việt Nam tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026 - 2028. Sự kiện được tổ chức vào dịp kỷ niệm Ngày Nhân quyền quốc tế đã thu hút sự quan tâm, tham dự của đông đảo đại sứ, đại diện các phái đoàn thường trực và quan sát viên tại Liên hợp quốc. Tham dự và phát biểu tại Buổi lễ, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Đỗ Hùng Việt cảm ơn các nước đã tin tưởng bầu Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền Liên hơp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025. Thứ trưởng Đỗ Hùng Việt khẳng định trong vai trò thành viên suốt hai năm qua, Việt Nam đã đẩy mạnh các ưu tiên về bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương, thúc đẩy bình đẳng giới, quyền lao động, quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền giáo dục, đồng thời chủ trì các Nghị quyết về “Kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (UDHR), 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna (VDPA)” và về “Biến đổi khí hậu và quyền con người”, ghi đậm dấu ấn Việt Nam tại cơ quan chính của Liên hợp quốc về bảo vệ quyền con người.

Ở trong nước, các thành tựu kinh tế - xã hội vượt bậc của Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới là kết quả của chủ trương đặt con người vào trung tâm của mọi chính sách phát triển, cách tiếp cận cân bằng đối với việc thúc đẩy các quyền con người một cách toàn diện, từ các quyền dân sự và chính trị, đến các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, cũng như ưu tiên chăm lo và bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương, bên cạnh nỗ lực to lớn của người dân Việt Nam ở cả trong và ngoài nước. Trong đó, có những điểm sáng được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Ngày 20/3, Báo cáo Hạnh phúc thế giới năm 2024 xếp Việt Nam trong số sáu quốc gia, vùng lãnh thổ hạnh phúc nhất châu Á (xếp hạng thứ 54 thế giới) dựa trên các tiêu chí khảo sát tuổi thọ, sức khỏe, thu nhập bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội trong thời kỳ khó khăn, mức độ tham nhũng và lòng tin xã hội. Báo cáo Phát triển con người (HDR) 2023/24 có tiêu đề “Phá vỡ tình trạng bế tắc: Tái hình dung sự hợp tác trong một thế giới phân cực” của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) khen ngợi Việt Nam nằm trong nhóm phát triển con người cao. Trưởng Đại diện thường trú của UNDP Ramla Khalidi ghi nhận: “Việt Nam vẫn là quốc gia có mức phát triển con người cao trong suốt những năm khó khăn của đại dịch Covid-19. Phát triển con người tiếp tục là trọng tâm trong chiến lược phát triển của đất nước và chúng tôi đã thấy những kết quả đáng kể trong những thập kỷ qua”. Gần đây, ngày 17/10/2024, Báo cáo Cập nhật tình trạng nghèo và bình đẳng ở Việt Nam: Hướng tới các thành phố phát triển bao trùm hơn của Tổ chức Ngân hàng Thế giới (World Bank-WB) một lần nữa khẳng định, Việt Nam đã có một thập kỷ giảm nghèo thành công trước khi bị chững lại do đại dịch Covid-19.

Trên tinh thần đó, việc Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng việt đề nghị các nước tiếp tục ủng hộ ứng cử của Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026 - 2028, là hoàn toàn xứng đáng, thể hiện rõ mong muốn trong việc đóng góp vào các nỗ lực chung của thế giới, nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Nếu trúng cử Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia một cách tích cực, xây dựng và có trách nhiệm, sẽ phấn đấu hết mình thúc đẩy thực hiện các mục tiêu chung của Hội đồng Nhân quyền là bảo đảm ngày càng tốt hơn việc thụ hưởng quyền con người của mọi người dân trên toàn thế giới.

Vì vậy, “nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế phản đối việc Việt Nam tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền của Liên Hiệp quốc nhiệm kỳ 2026-2028 vì hồ sơ nhân quyền tồi tệ của nhà nước độc đảng ở Đông Nam Á” như RFA rêu rao chỉ là luận điệu xuyên tạc nố bịch, vô căn cứ, cần phải nên án và kiên quyết đấu tranh bác bỏ./.


Dec 15, 2024

Sự vu cáo trắng trợn về tình hình tôn giáo ở Việt Nam

         Tre Việt – Ngày 12/12, trang facebook Đài RFA đăng bài: “Báo động tình trạng Việt Nam gia tăng đàn áp các nhóm tôn giáo độc lập”, trong đó đưa thông tin: Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế (USCIRF) của Mỹ vừa ra thông cáo báo chí báo động về tình trạng đàn áp đang gia tăng đối với các nhóm độc lập tại Việt Nam bao gồm Phật giáo của người Khmer Krom, Tin Lành của người Thượng, đạo Cao Đài và những nhóm đạo khác. Đây là thông tin không chính xác, cố tình vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo của USCIRF.

Là đất nước đa tôn giáo, những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán quan điểm bảo đảm các tôn giáo hoạt động bình đẳng theo Hiến pháp, pháp luật; mọi người dân được tự do tín ngưỡng tôn giáo. Điều đó được thể hiện rõ trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cụ thể, Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 củaBan Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác tôn giáo đã khẳng định: thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “tôn giáo là một nguồn lực xã hội”, khẳng định quan điểm: tiếp tục phát huy vai trò, tác động tích cực của tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tại Điều 3, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội (khóa 14) thông qua ngày 18/11/2016 đã quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là: 1. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; 2. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của Nhân dân; 3. Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo.

Như vậy, với quan điểm nhất quán cùng hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ đã tạo hành lang pháp lý, cơ sở để các tôn giáo đăng ký, cấp phép hoạt động. Theo Sách trắng về các tôn giáo Việt Nam được công bố năm 2023, hiện Việt Nam có: trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số cả nước), hơn 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự. Ở Việt Nam còn có hàng ngàn nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung, trong đó có các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Nhà nước Việt Nam đã công nhận 36 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo khác nhau, như: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo, Tôn giáo Baha'i,v.v. Thực tiễn về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam là bức tranh sinh động, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, là điều không thể phủ nhận.

Tuy nhiên, trong thông cáo báo chí của USCIRF lại cho rằng Việt Nam đàn áp tôn giáo thông qua việc xét xử 09 người Khmer Krom ở Vĩnh Long hay sự việc hai người Ê-đê đứng đầu nhóm Tin Lành ở Tây Nguyên bị tấn công là không phản ánh đúng bản chất của vụ việc. Bởi, sự thật là: các cơ quan chức năng của tỉnh Vĩnh Long đã bắt giữ, điều tra, xét xử đưa ra xét xử 09 người Khmer Krom là đúng người, đúng tội. Theo cáo trạng, chiều 22/11/2023, Tổ công tác của UBND huyện Tam Bình đến nắm tình hình, giải quyết sự việc xảy ra tại chùa Đại Thọ. Khi Tổ công tác đi vào bên trong khuôn viên chùa làm việc nhưng những người trong chùa không chấp hành. Thực hiện chỉ đạo của Thạch Chanh Đa Ra, các bị cáo còn lại đã khóa cổng chính lại. Sau đó, Thạch Chanh Đa Ra và các bị cáo đã có nhiều lời lẽ to tiếng, khống chế, kéo, đẩy các thành viên Tổ công tác phải vào chánh điện xin lỗi Thạch Chanh Đa Ra. Tổ công tác kháng cự thì bị một số đối tượng dùng vũ lực gây thương tích. Như vậy, những công dân này đã lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước và bắt, giữ người trái pháp luật. Hay, khi phát hiện 02 người Ê-đê đứng đầu nhóm Tin Lành ở Tây Nguyên tổ chức sinh hoạt, truyền đạo trái phép, vi phạm pháp luật. Do đó, lực lượng chức năng đến tuyên truyền, giải thích, đề nghị giải tán là đúng quy định của pháp luật, không có chuyện đánh đập, gây thương tích.

Vì thế, việc USCIRF chỉ dựa vào những thông tin phiến diện, không khách quan, chính xác rồi đưa ra thông cáo báo chí nêu trên là sự vu cáo trắng trợn về tình hình tôn giáo tại Việt Nam, cần lên án, đấu tranh, bác bỏ./.

 

Dec 10, 2024

Không thể phủ nhận “những con số biết nói” trong bảo đảm quyền con người ở Việt Nam

          Tre Việt - Cùng với những thành tựu trong xây dựng đất nước, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu trong bảo đảm quyền con người trên các phương diện của đời sống xã hội; trước hết là quyền được sống trong hòa bình, quyền được hưởng phúc lợi, quyền được sống sung túc, quyền được cải thiện từng ngày về điều kiện sống. Thành tựu đó thể hiện qua “những con số biết nói”, không một ai có thể xuyên tạc, phủ nhận!

Phái đoàn Việt Nam tại Khóa họp thứ 57
Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc
(Ảnh: Anh Hiển/TTXVN)
      Cần phải khẳng định sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, thống nhất và công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam không ngoài mục tiêu cao nhất là bảo đảm cuộc sống và các quyền của người dân Việt Nam. Những thành tựu về đảm bảo quyền con người của Việt Nam trong suốt 79 năm thành lập nước và gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, trước tiên là mang lại những lợi ích thiết thực cho mỗi người dân, tiếp đó là tạo dấu ấn về hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế. Bởi vậy, mọi thành quả phát triển của Việt Nam đều là vì con người. “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”. Câu nói của Thủ tướng Phạm Minh Chính đã toát lên một cách chân thực nhất quan điểm của Đảng và Nhà nước trong thực hiện cam kết đảm bảo quyền con người ở Việt Nam, luôn nỗ lực để không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển, bởi đó luôn là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Những số liệu cụ thể dưới đây minh chứng cho điều đó và không thể bác bỏ.

Chỉ tính riêng từ năm 2019 đến nay, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5%/năm. Với các giải pháp, chính sách giảm nghèo bền vững được triển khai hiệu quả theo tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”, tới hết tháng 9/2024, tỷ lệ hộ nghèo trên toàn quốc là 1,93%, giảm 1%. Xây dựng nhà ở xã hội đạt kết quả tích cực; trong thời gian ngắn, đã huy động trên 6.000 tỉ đồng cho phong trào xóa nhà tạm, nhà dột nát. Đó là những ngôi nhà cấp 4 đạt tiêu chí “3 cứng” (nền-móng cứng, khung-tường cứng, mái cứng). Việt Nam hiện đứng thứ 54/166 quốc gia được xếp hạng về chỉ số phát triển bền vững, tăng 1 bậc so với năm 2023.

Người dân Việt Nam được hưởng lợi từ những tiến bộ xã hội vô cùng đáng ghi nhận, thu nhập bình quân đầu người đã tăng từ khoảng 200 USD lên đến hơn 4.000 USD tới năm 2024. Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Australia, Đại học New South Wales, ấn tượng mạnh mẽ với thành công của nền kinh tế Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng được dự báo đạt từ 6,1% - 7% trong năm 2024, tỷ lệ đói nghèo đã giảm mạnh. Ông đặc biệt chú ý những thành tựu giúp bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện cuộc sống cho người dân Việt Nam như tăng lương cơ sở, lương tối thiểu vùng hằng năm cho người lao động từ giữa năm 2024.

Chuyên gia Kinh tế trưởng của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, ông Jonathan Pincus, nhận xét: “Phát triển con người luôn là trọng tâm trong chính sách phát triển của Việt Nam ngay từ những ngày đầu và chúng ta đã chứng kiến những thành tựu rất lớn trong khoảng hơn một thập niên qua của Việt Nam, đặc biệt là về tiếp cận giáo dục. Một số chỉ số như sức khỏe cũng đã được cải thiện khá rõ rệt trong thập niên qua”. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế của Việt Nam hiện là 94,1%, tăng từ mức 90,9% năm 2000. Theo Báo cáo hạnh phúc thế giới năm 2024 của Liên hợp quốc, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143.

Trên bình diện quốc tế, Việt Nam là đại diện của châu Á-Thái Bình Dương được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc trong 2 nhiệm kỳ; đã và đang tiếp tục thể hiện rõ nỗ lực và trách nhiệm trong năm thứ hai trên cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025; tích cực hợp tác với các quốc gia khác trong khu vực để thúc đẩy các quyền cơ bản của con người trên toàn cầu.

Đúc kết về quá trình phát triển con người và đảm bảo quyền con người của Việt Nam, trong thư gửi đến Hội thảo khoa học quốc gia “Con người, quyền con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước” diễn ra tháng 10/2024, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm tái khẳng định: “Thực hiện quan điểm nhất quán và xuyên suốt về quyền con người là yếu tố then chốt tạo nên sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác,...”. Đó là những dấu ấn trên hành trình bảo đảm quyền con người ở Việt Nam trong phát triển đất nước, đảm bảo ấm no, hạnh phúc và thịnh vượng cho người dân. Không ai, thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận./.

 

Dec 8, 2024

Đánh giá phiến diện của CIVICUS

             Tre Việt – Kênh tiếng Việt, Đài RFA ngày 04/12 đăng bài: “CIVICUS: Việt Nam không có không gian để xã hội dân sự hoạt động tự do năm thứ bảy liên tiếp”. Theo bài viết, trong báo cáo mới đây của Tổ chức Liên minh Thế giới vì sự tham gia của công dân (CIVICUS), có trụ sở đặt tại Nam Phi đã cho rằng: Việt Nam tiếp tục không có không gian để xã hội dân sự hoạt động tự do và bị xếp vào nhóm các nước thực hiện các quyền tự do cơ bản của công dân như quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội cực kỳ hạn chế. Vậy sự thật có đúng như vậy không? Hãy cùng Tre Việt làm rõ.

Cần khẳng định rõ: Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán, quan tâm bảo đảm tốt nhất các quyền cơ bản của con người, của công dân và được thể hiện cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước cũng như các văn kiện, nghị quyết của Đảng; đồng thời, có nhiều chính sách, giải pháp tổ chức triển khai thực hiện trong thực tiễn. Dễ dàng nhận thấy, ở Việt Nam bên cạnh hệ thống tổ chức đảng, tổ chức chính quyền các cấp còn có hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội, các hội, đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến địa phương, như: Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu Chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, v.v. Đây là các tổ chức đại diện cho nguyện vọng, lợi ích, tiếng nói của các tầng lớp nhân dân. Ở đó, mọi ý kiến, tâm tư, nguyện vọng,... của nhân dân đều được lắng nghe, tiếp thu, giải đáp kịp thời những vướng mắc, bất cập nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống, nhằm tập trung xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh; nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Mọi người dân, không phân biệt già trẻ, gái, trai, dân tộc, tôn giáo,... đều bình đẳng, được tự do đi lại, tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự do ngôn luận; được lao động, học tập, cống hiến; được bảo đảm cuộc sống vật chất, tinh thần ngày càng phong phú, đa dạng. Nhờ đó, tạo nên dư luận xã hội tích cực, đồng thuận, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, chính quyền các cấp. Chính vì thế, các tầng lớp nhân dân đều thấy không cần thiết phải có thêm các tổ chức xã hội dân sự. Hơn nữa, các tầng lớp nhân dân đều nhận thấy rằng: các tổ chức xã hội dân sự đều hoạt động theo kiểu tự do, dân chủ vô tổ chức, vô chính phủ. Do đó, các thế lực thù địch, phản động luôn cổ súy cho trào lưu ra đời, thành lập và thúc đẩy hoạt động của xã hội dân sự. Thông qua đó, để lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ; kích động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc với âm mưu, thủ đoạn vô cùng xảo quyệt.

Trên thực tế, CIVICUS đã không dựa vào tình hình thực tế, vào những thành tựu trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm nhân quyền,... của Việt Nam để có những đánh giá khách quan. Ngược lại, CIVICUS chỉ dựa vào việc các cơ quan chức năng thực thi pháp luật của Việt Nam bắt giữ, điều tra, xử lý nghiêm minh một số công dân vi phạm pháp luật, rồi suy diễn, quy chụp rằng Việt Nam đàn áp giới bất đồng chính kiến, đưa ra những đánh giá phiến diện, thiếu khách quan, không có cơ sở, như: Việt Nam không có không gian để xã hội dân sự hoạt động tự do là thông tin không đúng sự thật, cần lên án, đấu tranh bác bỏ./.

 

Dec 3, 2024

Hành động can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam là không thể chấp nhận

         Tre Việt - Ngày 26/11, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long mở phiên tòa xét xử sơ thầm vụ án hình sự Thạch Chanh Đa Ra và đồng bọn về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bắt giữ người trái pháp luật”, theo Điều 331 và Điều 157, Bộ Luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xảy ra tại chùa Đại Thọ (ấp Đại Thọ, xã Loan Mỹ, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long).

Ngay sau đó, một số đài báo nước ngoài, trang tin phản động đã phát tán nhiều tài liệu có nội dung phản đối bản án, yêu cầu Việt Nam hủy bỏ cáo buộc và trả tự do cho Thạch Chanh Đa Ra cùng đồng bọn. Đặc biệt, sau phiên tòa, đại diện các tổ chức “Đoàn kết Công giáo toàn cầu (CSW)”, “Liên đoàn Khmer Krom (KKF)”“Tổ chức các Quốc gia và Dân tộc không có đại diện (UNPO)” đã xuyên tạc, kích động, với những lời lẽ “lộng ngôn” khi cho rằng: “Việc chính quyền Việt Nam bắt giam các nhà lãnh đạo tinh thần và những Phật tử là sự vi phạm trắng trợn các quyền cơ bản của con người; thể hiện sự coi thường trắng trợn các tiêu chuẩn nhân quyền và nguyên tắc dân chủ; phiên tòa bất công này là bằng chứng rõ ràng cho thấy chính quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp người Khmer-Krom; thể hiện hành động xúc phạm văn hóa, tôn giáo, vi phạm nghiêm trọng di sản và bản sắc của người Khmer-Krom,…”

Đây là hành động quen thuộc mà các tổ chức, cá nhân thiếu thiện trí vẫn thường sử dụng để can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ, cũng như kích động, xuyên tạc kết quả thúc đẩy và bảo đảm quyền con người nói chung, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo nói riêng ở Việt Nam.

Khẳng định ngay rằng, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của  nhân dân là quan điểm, chính sách xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Từ quan điểm đến chính sách và thực tiễn đều minh chứng rằng, Nhà nước Việt Nam luôn bảo đảm trên thực tế sự đa dạng, hòa hợp, bình đẳng giữa các tôn giáo và không có sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, chung sống hài hòa, đoàn kết, gắn bó, đồng hành với dân tộc. Nhà nước bảo đảm và tạo điều kiện để các sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo của tất cả các tôn giáo được diễn ra bình thường theo quy định pháp luật. Hoàn toàn không có hiện tượng “đàn áp người Khmer-Krom,  xúc phạm văn hóa, tôn giáo, vi phạm nghiêm trọng di sản và bản sắc của người Khmer-Krom,…”, như những gì mà đại diện các tổ chức CSW, KKF và UNPO đã xuyên tạc, kích động.

Quay trở lại với vụ án Thạch Chanh Đa Ra và đồng bọn, theo cáo trạng, ngày 21/11/2023, phát hiện trước cửa chùa Đại Thọ có treo 03 lá cở của “Liên đoàn Khmer CPC Krom”, đến ngày 22/11/2023, Tổ công tác của Ủy ban nhân dân huyện Tam Bình đến làm việc, yêu cầu Thạch Chanh Đa Ra (thời điểm đó đang cầm đầu chiếm quyền quản lý chùa Đại Thọ) thì bị các đối tượng khống chế, hành hung, gây thương tích và đưa vào chánh điện, khóa cửa, canh giữ không cho ra ngoài; hậu quả khiến 03 người thuộc Tổ công tác đa chấn thương phải nhập viện. Ngoài ra, từ năm 2020 đến tháng 4/2023, Thạch Chanh Đa Ra cùng một số đối tượng khác cũng thường xuyên sử dụng mạng xã hội để đăng tải, chia sẻ các thông tin sai sự thật, giả mạo, vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự của tổ chức, cá nhân, v.v. Hành động của Thạch Chanh Đa Ra và đồng bọn đã vi phạm Điều 331 và Điều 157, Bộ Luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tội: “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bắt giữ người trái pháp luật”.

Xem xét hành vi, tính chất, mức độ phạm tội, Hội đồng xét xử đã tuyên bị cáo Thạch Chanh Đa Ra (sinh năm 1990, ngụ huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long) 06 năm tù; Dương Khải (sinh năm 1994, ngụ huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng) 05 năm 09 tháng tù cùng về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bắt, giữ người trái pháp luật; Kim Khiêm (sinh năm 1978, ngụ huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long) 03 năm tù về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. 06 bị cáo khác, gồm: Thạch Ve Sanal (sinh năm 1987) 02 năm 06 tháng tù; Kim Khu (sinh năm 1959); Thạch Chóp (sinh năm 2003); Thạch Nha (sinh năm 1998, cùng ngụ huyện Tam Bình); Kim Sa Rương (sinh năm 1987, ngụ huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh) và Thạch Quý Lầy (sinh năm 1986, ngụ huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh), mỗi bị cáo 02 năm tù cùng về tội “Bắt giữ người trái pháp luật”.

Đây là bản án thích đáng dành cho những đối tượng vi phạm pháp luật, thể hiện tính “Thượng tôn pháp luật” của Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam là không thể chấp nhận được. Hành động đó cần bị lên án và đấu tranh bác bỏ./.