Jun 26, 2025

Vạch trần chiêu trò xuyên tạc, công kích của Trương Nhân Tuấn về “biên giới mềm”

           Trong bối cảnh Việt Nam đang khẳng định vai trò và vị thế trên trường quốc tế, phát ngôn của Thủ tướng Phạm Minh Chính - “Hàng không Việt Nam bay tới đâu, biên giới mềm của Việt Nam tới đó” - đã gây chú ý lớn. Đây không chỉ là một hình ảnh biểu trưng mà còn là thông điệp chiến lược về sức mạnh mềm, hội nhập và kết nối toàn cầu.

Tuy nhiên, trong khi phần lớn giới chuyên môn và công chúng đón nhận phát ngôn này một cách tích cực, Trương Nhân Tuấn - một cây bút phản động có thâm niên chống phá, lại chọn cách bóp méo và công kích một cách thô thiển. Trong bài viết mang giọng điệu hằn học, ông ta gọi Thủ tướng Việt Nam là “đầu đất”, và biến khái niệm “biên giới mềm” thành trò cười rẻ tiền bằng việc gán ghép nó với những hình ảnh lệch lạc như “buôn lậu”, “ăn cắp”, “trồng cần sa”.

Cần nói rõ: “biên giới mềm” không phải là một phát ngôn ngẫu hứng, mà là một ẩn dụ được xây dựng trên nền tảng của học thuyết “quyền lực mềm” do giáo sư Joseph Nye (Harvard) khởi xướng. Đó là năng lực gây ảnh hưởng thông qua sức hấp dẫn văn hóa, mô hình phát triển, tri thức, sáng tạo - thay vì vũ lực hay ép buộc. Khi Việt Nam mở đường bay tới nhiều trung tâm kinh tế lớn trên thế giới, điều đó thể hiện tầm nhìn chiến lược trong việc xuất khẩu hình ảnh quốc gia: từ du lịch, thương mại đến giáo dục, khoa học và giao lưu nhân dân.

Việc Trương Nhân Tuấn cố tình cào bằng “biên giới mềm” với các hiện tượng cá biệt tiêu cực là một hành động vừa thiếu hiểu biết, vừa mang động cơ bôi nhọ. Những vụ việc như buôn lậu, ăn cắp tuy có thật, nhưng chỉ là số ít và không thể đại diện cho hàng triệu người Việt đang sinh sống, học tập và lao động chân chính tại hơn 100 quốc gia. Chính họ - từ những kỹ sư ở Nhật, bác sĩ ở Pháp, doanh nhân ở Mỹ, đến các nhà khoa học đoạt giải quốc tế - mới là biểu hiện sống động nhất của “biên giới mềm”.

Thủ đoạn của Trương Nhân Tuấn không dừng lại ở việc phỉ báng lãnh đạo hay xuyên tạc phát ngôn. Ông ta còn tỏ rõ ác ý khi khái quát xã hội Việt Nam bằng những cụm từ hằn học như “trai làm nô, gái làm tì”. Phải chăng hàng chục tỉ USD kiều hối mà người lao động gửi về mỗi năm - chỉ riêng Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận 5,2 tỉ USD trong nửa đầu năm 2024 - cũng là “dấu hiệu nô lệ”? Kiều hối không chỉ là tiền, đó là niềm tin, là sự kết nối vô hình giữa hàng triệu trái tim Việt xa quê với đất mẹ - một trong những “biên giới mềm” bền vững nhất.

Không dừng lại ở đó, Trương Nhân Tuấn còn sử dụng chiêu trò xưa cũ: quy chụp chủ trương “toàn dân làm giàu” thành “vòng kim cô xã hội chủ nghĩa”. Ông ta phớt lờ thực tế rằng kinh tế tư nhân Việt Nam đang phát triển mạnh, đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Các startup như MoMo, Sky Mavis, VinFast đang gây tiếng vang toàn cầu. Việt Nam còn là quốc gia đầu tiên trong ASEAN tự sản xuất và xuất khẩu điện thoại 5G do kỹ sư trong nước phát triển - đó chẳng phải là biểu hiện rõ ràng của một “biên giới mềm công nghệ” hay sao?

Trên lĩnh vực văn hóa, từ phim đoạt giải tại các liên hoan quốc tế, đến món ăn Việt xuất hiện trong Michelin Guide, nhạc Việt lan tỏa tại Nhật, Hàn,… tất cả đều là những “đường bay vô hình” mà hình ảnh Việt Nam đang vươn xa. Chúng không phải sản phẩm của tuyên truyền, mà là thành quả của sự nỗ lực bền bỉ và sáng tạo. Bài viết của Trương Nhân Tuấn, thay vì phản biện chính sách, lại chỉ chọn cách phủ định mọi thành tựu - từ kinh tế, giáo dục đến văn hóa. Đó không còn là phản biện, mà là vu cáo và xuyên tạc có chủ đích.

Một xã hội hiện đại cần tiếng nói phản biện, nhưng phản biện không thể là sự giễu cợt mang tính hạ nhục, càng không thể là tấm bình phong cho định kiến và mưu đồ chính trị. Khi một Thủ tướng phát biểu về tầm nhìn “biên giới mềm”, điều cần làm là cùng nhau suy nghĩ: làm sao để tầm nhìn đó được hiện thực hóa? Làm sao để hàng không Việt Nam không chỉ chở hành khách mà còn chở theo hình ảnh tích cực về con người, trí tuệ, sản phẩm và văn hóa Việt Nam?

Sẽ luôn có người tìm cách mỉa mai, bóp méo, hoặc thậm chí bịa đặt, nhưng điều quan trọng là: chúng ta - những người quan tâm đến sự phát triển đất nước cần tỉnh táo để không bị dẫn dắt bởi những lời lẽ giật gân, cực đoan như của Trương Nhân Tuấn. Vì rốt cuộc, câu hỏi không còn là “biên giới mềm có tồn tại hay không” - mà là: mỗi công dân Việt Nam làm gì để nó ngày càng lan tỏa, vững chắc và đáng tự hào./.

(Trích nguồn: nhanquyenvn.org)

 

Jun 25, 2025

Kịnh bản vụng về, xỏ xiên về thuế khóa của Dư Lan

         Trên trang RFA, bút danh Dư Lan đã đăng bài: “Muốn tiểu thương khai thuế minh bạch, chính quyền phải làm sạch mình trước”. Với những lời lẽ “xỏ xiên”, Y cho rằng: “Việt Nam thiếu luật pháp minh bạch. Thiếu hệ thống công an, thuế, “quản lý thị trường” trong sạch; hay Quốc hội Việt Nam và Bộ tài chính đã thực thi một chiến dịch gần như “đánh úp” dân… không có lộ trình cho dân chuẩn bị về nhận thức, tài chính và phương tiện”. Và cuối cùng Y đi đến kết luận: “Nhà nước đang vận hành một hệ thống bị lỗi… Nhà nước phải sửa lỗi hệ thống trước”. Vậy, hãy xem “ẩn sâu bên trong” những lời lẽ của Dư Lan đúng hay sai?

          Thứ nhất, không thể lấy “cái riêng” để suy diễn, quy chụp và phủ nhận vai trò của cán bộ công an, thuế và quản lý thị trường. Việc một số cán bộ công an, thuế và quản lý thị trường có những hành vi vi phạm trong thực thi nhiệm vụ liên quan đến hộ kinh danh nhỏ lẻ như Dư Lan đưa ra là hoàn toàn không sai. Tuy nhiên, vấn đề này cần nhận thức là, số cán bộ đó đã vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước và quy định của từng ngành trong thực thi nhiệm vụ, đó là do số cán bộ này thiếu tu dưỡng, rèn luyện, dẫn đến suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân trong quá trình công tác. Những khuyết điểm, sai phạm của một số cán bộ công an, thuế và quản lý thị trường nói trên chỉ là cá biệt của một bộ phận chứ không phải là tất cả, không thể quy kết cái hiện tượng riêng lẻ thành cái chung và phổ biến. Và tất cả hành vi lệch chuẩn của một số cán bộ gây nhũng nhiễu, khó khăn cho hộ kinh doanh cá thể trong thời gian qua chỉ là hiện tượng thuộc về hành vi, đạo đức cá nhân, đây là những “con sâu làm rầu nồi canh”, chứ không phải là nguyên nhân từ việc “Nhà nước đang vận hành một hệ thống bị lỗi” như lời của Dư Lan. Do đó, không thể lấy cái cá nhân (cái riêng) để suy diễn, quy chụp lên cái tổng thể, bản chất. Không thể duy ý chí, cảm tính chỉ dựa vào thiếu sót, hạn chế của một vài cá nhân mà phủ nhận sạch trơn vai trò của đội ngũ cán bộ công an, thuế và quản lý thị trường trong sự nghiệp phát triển của đất nước.
          Thứ hai, chuyển đổi từ thuế khoán sang kê khai thực tế là bước tiến giúp nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế, tạo sự minh bạch, công bằng trong kinh doanh. Chúng ta đều biết, thuế khoán đối với hộ kinh doanh được thực hiện trong điều kiện nền kinh tế ở trình độ phát triển thấp, khoa học và công nghệ chưa hiện đại; khả năng áp dụng công nghệ của hộ kinh doanh nhỏ chưa tốt, không có điều kiện sử dụng sổ sách kế toán để ghi nhận doanh thu thực tế, nên cần ước tính doanh thu để tính thuế. Những năm qua, ở nước ta thuế khoán đối với các hộ kinh doanh nhỏ lẻ là giải pháp hữu hiệu để huy động đầy đủ các nguồn thu vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển của nền kinh tế số hiện nay, khi hạ tầng thanh toán không dùng tiền mặt và các công cụ hỗ trợ quản lý doanh thu kinh doanh phát triển mạnh, đảm bảo các điều kiện để chuyển sang phương thức kê khai thuế. Cho nên, việc bỏ thuế khoán sẽ đảm bảo tính minh bạch, bình đẳng trước pháp luật giữa các đối tượng kinh doanh, dù là cá nhân hay doanh nghiệp. Đồng thời, thúc đẩy các hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp – đây là giải pháp quan trọng để đạt mục tiêu có thêm 1 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 mà Nghị quyết số 68-NQ/TW đã đề ra.
          Thứ ba, chuyển đổi từ thuế khoán sang kê khai thực tế là biện pháp quan trọng trong chống buôn lậu, hàng giả, bảo vệ doanh nghiệp, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững. Nghị quyết số 68-NQ/TW đặt ra nhiệm vụ vừa trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với đất nước trong kỷ nguyên mới là “phát triển kinh tế tư nhân”. Không chỉ vậy, mà phải “phát triển nhanh.”, “bền vững”, “hiệu quả” và “chất lượng cao” vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài; cần được cụ thể hóa trong các chiến lược, chính sách phát triển của đất nước; nhằm phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, kích hoạt, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực trong Nhân dân cho phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, phát triển kinh tế tư nhân nhanh, không đồng nghĩa với việc làm ngơ trước những gian lận thương mại với lời biện bạch, “chiếu cố người buôn bán nhỏ”… thì làm sao có sự bền vững chứ chưa nói đến chuyện giải phóng sức sản xuất.
           Khi hàng giả còn trà trộn với hàng thật thì những doanh nghiệp làm ăn chân chính, nói không với hàng không rõ nguồn gốc, hàng vi phạm bản quyền trí tuệ, mua và bán đều theo quy định về hóa đơn, đóng thuế đầy đủ sẽ rất khó cạnh tranh bình đẳng về giá. Rất dễ thua trên thị trường nội địa vì chịu nhiều thua thiệt, những “ngay thương” lại mang tiếng xấu như “gian thương”. Vì, mua bán theo quy định về hóa đơn, xuất xứ hàng hóa không chỉ là để “nộp thuế đúng” dựa trên doanh thu thực, mà cũng là một cách để minh bạch hóa thương trường, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi thành phần tham gia. Việc cánh cửa “lách luật,” “né thuế” bị thu hẹp dần sẽ tạo tâm lý yên tâm, không so bì từ phía doanh nghiệp làm ăn lành mạnh và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước.
            Cho nên, trước tình trạng một số hộ kinh doanh tạm nghỉ buôn bán trong thời gian gần đây hay từ chối hình thức thanh toán chuyển khoản có thể là do họ chưa tìm hiểu thấu đáo các quy định mới, hoặc có thể đây là sự chống đối cơ quan chức năng từ một số đối tượng. Chúng ta cần nhìn nhận một cách đầy đủ và tỉnh táo, tránh vô tình cổ xúy cho hành vi sai trái hoặc mắc mưu theo luận điệu của các đối tượng phản động như Dư Lan./.
(Trích nguồn: nhanvanviet.com)


Jun 24, 2025

Uy tín - Không phải để mang ra “phát sóng”

        Tre Việt - Uy tín chính là sự tin cậy, tôn trọng và kính nể mà người khác dành cho một cá nhân, tổ chức hay quốc gia, dựa trên những hành động, lời nói và cách cư xử nhất quán với các giá trị đạo đức, trách nhiệm và hiệu quả trong công việc cũng như trong cuộc sống. Trong chính trị nói chung, ngoại giao nói riêng, uy tín không phải là một “mỹ từ” để đem ra khoe mẽ, cũng không phải là một vật trang trí để trưng trên bàn hội đàm, mà là một giá trị cần được xây dựng bằng hành động, giữ bằng danh dự và nuôi bằng trách nhiệm. Bởi, uy tín mà bị “phát sóng”, sử dụng làm mục đích chính trị thì còn đâu… chữ “tín”!

Mới đây, một đoạn ghi âm bị rò rỉ trong một động thái ngoại giao mềm dẻo giữa hai vị nguyên thủ của hai quốc gia. Một bên gọi điện mang theo tinh thần thiện chí, mở lời thân mật với “danh xưng” như người thân trong một dòng họ. Nhưng ai ngờ, đầu dây bên kia… ghi âm! Ở đây, chuyện ghi âm không có gì là mới lạ, cũng không phải lần đầu xuất hiện trong ngoại giao. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, ghi thì được, nhưng đem “phát sóng” thì cần phải suy nghĩ thật kỹ. Bởi lẽ, nếu cứ thấy “hữu ích” là chia sẻ, thấy “vui tai” là đưa lên mạng xã hội, thì đâu còn không gian để ngoại giao… nói thật? Việc “phát sóng” những lời như vô hại ấy, một khi lọt ra ngoài văn cảnh, hoặc tệ hơn, bị “trích khúc” theo một mục đích chính trị thì nó lại trở nên vô cùng nguy hiểm!

Thế là chỉ một đoạn ghi âm vài phút, bỗng chốc biến một cuộc gọi thiện chí trở thành “một trận cuồng phong” giáng vào niềm tin nội bộ. Liên minh cầm quyền có nguy cơ tan vỡ, thị trường chao đảo, dân chúng xuống đường biểu tình. Người trong cuộc phải bước ra xin lỗi! Thế mới nói, “uy tín” không nằm trong lời hứa, mà nằm ở cách giữ lời. Nó không cần được tô son hay dán nhãn “tôi đây uy tín”, mà chỉ bền khi người khác biết nâng niu, giữ gìn. Nhất là trong thời đại số, nơi mà mọi phát ngôn riêng tư đều có thể bị ghi lại và phát tán, khiến một cuộc trò chuyện tưởng chừng kín đáo cũng có thể trở thành tâm điểm của dư luận.

Người ta vẫn nói, “người uy tín” đâu cần nói nhiều. Quả thực, có những người chỉ cần im lặng cũng đủ khiến người khác lắng nghe và tự soi lại mình. Bởi, cái trọng lượng của uy tín nằm ở hành vi, chứ không phải ở tần suất lên tiếng. Trái lại, người đã “đánh rơi uy tín” thì dù có nhắc đi nhắc lại một điều đến ngàn lần, người ta nghe không phải để tin, mà để cảnh giác. Cảnh giác để lần sau đừng nhấn gọi nhầm, đừng tâm sự với những người không đáng tin và những nơi không đáng nói.

Chính trị, về bản chất luôn cần lòng tin. Nhưng lòng tin không được xây bằng “danh xưng thân mật”, mà bằng hành xử có trách nhiệm với từng lời đã nói, từng cam kết đã hứa. Có người tưởng rằng “uy tín đến từ ngôn từ êm dịu”, nhưng thực tế chứng minh: nó chỉ đến từ “kiên cường trong hành động và tử tế trong cả khi không ai nhìn thấy”. Bởi, thế giới hôm nay đang “ghi âm cả những gì không phát sóng”, và “phát sóng cả những gì không cần ghi âm”. Vậy nên, những ai vẫn tìm kiếm “ngoại giao tình cảm”, thì xin hãy cẩn trọng và nhớ rằng, mỗi lời nói ra đều mang hệ lụy và không phải cuộc gọi nào cũng chỉ dừng ở hồi chuông./.


Jun 23, 2025

Không thể xuyên tạc vai trò lịch sử và bản chất cách mạng của báo chí Việt Nam

           Mới đây, bài viết “Báo chí cách mạng, trăm tuổi mới xây văn hóa” của Gió Bấc, đăng trên trang “Bureau CTM Media - Âu châu”, đã thể hiện rõ mưu đồ chống phá báo chí cách mạng. Với lối viết mỉa mai, xảo ngôn và lập luận độc hại, tác giả này đã ngạo mạn tuyên bố: “Báo chí cách mạng Việt Nam xưa nay vốn là công cụ tuyên truyền, cờ, đèn, kèn, trống cho Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, thì nay có thêm nét văn hóa mới là phục vụ cho các đại gia”. Đây không phải là một nhận định mang tính “phản biện” như cách các thế lực này thường rêu rao, mà là một luận điệu xuyên tạc có chủ đích, bóp méo bản chất, phủ định vai trò lịch sử, chính trị, xã hội của nền báo chí cách mạng Việt Nam.

1. Bản chất chính trị của báo chí cách mạng - sự thật không thể xuyên tạc. Trước hết, cần khẳng định một cách rạch ròi: báo chí cách mạng Việt Nam là bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là công cụ sắc bén trong công cuộc đấu tranh tư tưởng, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước. Gió Bấc cho rằng đó là điều đáng xấu hổ, cần thoát ly - nhưng đó là cách nhìn của kẻ muốn tước đoạt linh hồn chính trị của báo chí cách mạng. Như chúng ta đã thấy, ở bất cứ quốc gia nào, báo chí đều mang bản chất chính trị, dù dưới danh nghĩa “tự do”, “độc lập”. Điều khác biệt ở đây là: báo chí cách mạng Việt Nam không phục vụ cho lợi ích nhóm, không là công cụ thao túng của tư bản tài phiệt, mà đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc và nhân dân lên trên hết. Cái gọi là “cờ, đèn, kèn, trống” mà Gió Bấc phỉ báng chính là ánh sáng lý tưởng, là sự cổ vũ, động viên quần chúng đứng lên làm cách mạng, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Câu chữ miệt thị, lối ví von cay độc chỉ lột tả được tâm địa thâm hiểm, phản động, chứ không làm lu mờ bản chất chân chính và sứ mệnh lịch sử cao cả của báo chí cách mạng.

2. Luận điệu “phục vụ đại gia” cú đánh kép nhằm hạ uy tín và chia rẽ nội bộ. Một mũi tên mà Gió Bấc cố tình bắn vào báo chí cách mạng Việt Nam là luận điệu xuyên tạc: “nay có thêm nét văn hóa mới là phục vụ các đại gia”. Ẩn sau luận điệu này là sự đánh tráo bản chất. Từ vài biểu hiện cá biệt sai phạm, Y đã dựng nên một hình ảnh báo chí bị mua chuộc, thao túng, trở thành công cụ truyền thông của các nhóm lợi ích - một lối quy chụp đầy ác ý. Thủ đoạn ở đây là dựng chuyện có thật về một số sai phạm cá nhân (mà Đảng và Nhà nước ta không bao che, luôn xử lý nghiêm), sau đó dùng phương pháp phóng đại, đổ lỗi cho cả hệ thống, để gieo rắc hoài nghi, ly gián nội bộ, kích động sự bất mãn trong giới làm báo và xã hội.

Cần khẳng định: nền báo chí cách mạng Việt Nam không bao giờ dung túng cho những biểu hiện thoái hóa, biến chất, thương mại hóa làm lu mờ vai trò chính trị. Văn hóa báo chí cách mạng không phải là những trò phô diễn hình thức, không nằm ở màu mực trình bày hay chiêu trò giật tít, mà chính là ở bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, lương tâm xã hội cao cả, dấn thân vì sự thật, vì nhân dân. Chính báo chí cách mạng, với chức năng giám sát, điều tra, phản biện xã hội, đã phát hiện và phanh phui nhiều vụ việc sai phạm, góp phần làm trong sạch bộ máy. Những cây bút dũng cảm, trung thực, những tờ báo sống chết với sự thật, đó mới là diện mạo chính của báo chí cách mạng, chứ không phải bức tranh đen tối mà Gió Bấc vẽ ra bằng óc thù hằn.

Thực chất, bài viết của Gió Bấc không đơn thuần là một bài “bình luận báo chí”; đó là một sản phẩm truyền thông phá hoại tư tưởng, đánh vào niềm tin của Nhân dân với báo chí cách mạng, gieo mầm nghi ngờ trong cán bộ làm báo, từng bước thúc đẩy diễn biến hòa bình về tư tưởng, chính trị. Bằng những chiêu bài ngôn ngữ hàm ý sâu độc, Gió Bấc tìm cách xóa nhòa ranh giới giữa đúng, sai, giữa báo chí cách mạng và báo chí phản động, giữa phục vụ lý tưởng và phục vụ đồng tiền. Đó là cách chúng từng bước thúc đẩy “phi chính trị hóa” báo chí, một mũi nhọn trong chiến lược xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng.

Chống phá nền báo chí cách mạng chính là chống phá nền tảng tư tưởng, văn hóa của Đảng. Những luận điệu của Gió Bấc phải được nhận diện rõ là một thủ đoạn phá hoại về tư tưởng; cần kiên quyết phản bác, đấu tranh đến cùng. Báo chí cách mạng Việt Nam, trong 100 năm lịch sử, đã chứng minh bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp và văn hóa cách mạng của mình. Những lời bôi nhọ, xuyên tạc dù có thay hình đổi dạng thế nào, cũng không thể làm lu mờ ánh sáng của lý tưởng cách mạng và giá trị nhân văn cao đẹp mà báo chí Việt Nam đang gìn giữ và phát huy./.

(Trích nguồn: Nhanvanviet.com)

 

Tự do báo chí ở Việt Nam bị hạn chế là luận điệu xuyên tạc

         Trên mạng xã hội “Vietnamthoibao”, danh xưng “Liên minh vì dân chủ cho Việt Nam” đã đăng: “Bài nói ngắn về tự do báo chí trong gian hàng triển lãm: Dân chủ cho Việt Nam, tại Đài Loan”. Nội dung bài viết cho rằng “Việt Nam là một trong những quốc gia có mức độ tự do báo chí hạn chế nhất thế giới”; “Mọi hoạt động báo chí độc lập bị xem là vi phạm pháp luật”. Đây là hành động cố tình xuyên tạc, bóp méo chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về các quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, hòng làm giảm uy tín của Đảng, của Nhà nước ta với nhân dân, với quốc tế; do đó, cần phải được lên án, bác bỏ và nghiêm trị.

1. Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý bảo đảm quyền tự do báo chí của công dân. Như chúng ta đã biết, việc đảm bảo mọi công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí trong khuôn khổ quy định của pháp luật là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin…Việc thực hiện các quy định này do pháp luật quy định”. Luật Báo chí sửa đổi năm 2016 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng nêu rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi; Điều 11 Luật Báo chí sửa đổi năm 2016 quy định công dân có quyền: “Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân”. Đồng thời, Luật Báo chí sửa đổi năm 2016 cũng nêu rõ: “Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân”.

Thực tế những năm qua, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin. Điều này được quy định cụ thể trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật liên quan, đồng thời được triển khai thực hiện trong thực tế đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Qua đó, báo chí đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; luôn tích cực đấu tranh với các biểu hiện sai trái, tiêu cực trong xã hội, góp tiếng nói quan trọng vào việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời là cầu nối quan trọng với bạn bè quốc tế.

2. Từ thực tiễn, hệ thống truyền thông, báo chí của Việt Nam luôn không ngừng phát triển đáp ứng yêu cầu, quyền lợi chính đáng cho mọi người dân. Hiện nay, Việt Nam có khoảng hơn 41.000 nhân sự đang tham gia hoạt động trong lĩnh vực báo chí, 779 cơ quan báo chí (trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh – truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền hình. Trong khi đó, sóng của các cơ quan truyền thông quốc tế lớn như CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg…đều được tiếp cận dễ dàng tại Việt Nam. Việt Nam cũng được ghi nhận là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng và sử dụng internet cao nhất thế giới với hơn 70 triệu người sử dụng Internet (chiếm hơn 70% dân số).

Thực tế cho thấy, tại Việt Nam cũng không ai bị xét xử, bắt giữ vì bày tỏ chính kiến hay bảo vệ nhân quyền đúng pháp luật. Chỉ có những đối tượng lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, vi phạm pháp luật; tung tin giả, tin “xấu độc” hòng gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, gây hoang mang dư luận… mới bị kiên quyết xử lý theo pháp luật.

Tóm lại, chiêu bài mượn danh tự do báo chí, tự do ngôn luận để chống phá Đảng, Nhà nước của các phần tử thù địch, phản động là không đại diện cho quyền lợi, trách nhiệm xã hội của những người làm báo, cản trở và đi ngược lại xu thế đổi mới, phát triển toàn diện của đất nước. Do đó, cần phải đấu tranh bác bỏ và xử lý nghiêm minh./.

(Trích nguồn: Nhanvan viet.com)

 

Jun 19, 2025

Thực tiễn sinh động là minh chứng bác bỏ luận điệu xuyên tạc, kích động của Việt Tân

            Tre Việt - Ngày 18/6, trang facebook Việt Tân đăng bài: “Thúc đẩy tự do, công bằng và công lý vì Việt Nam”. Trong bài viết, họ rêu rao: “Tiêu ngữ ở quốc hiệu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là một xác định: sau khi đất nước độc lập, tự do rất cần thiết với người dân… đất nước đã độc lập, nhưng dân thiếu hạnh phúc”.

Cần khẳng định ngay, đây là luận điệu bịa đặt, mang bản chất thù địch của Việt Tân nhằm xuyên tạc, phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước; đồng thời, xuyên tạc, hạ thấp giá trị của độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc, khát vọng và mục tiêu cao cả trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước mà cả dân tộc, nhân dân Việt Nam đang nỗ lực phấn đấu thực hiện.

Chúng ta đều biết, “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” luôn là mục tiêu, khát vọng và là sự lựa chọn của các quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc chính là mục tiêu, “đích đến” của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Phấn đầu vì mục tiêu, khát vọng cao cả này, nên bao thế hệ người Việt Nam đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ quyền độc lập, tự do của Tổ quốc. Hơn tất cả các dân tộc trên thế giới, dân tộc Việt Nam hiểu sâu sắc các giá trị của Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Vì vậy, dân tộc Việt Nam lựa chọn Độc lập - Tự do - Hạnh phúc gắn liền với Quốc hiệu và là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.

Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh: từ một nước bị thống trị, không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng với sự đoàn kết, đồng lòng, quyết tâm của cả dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã trở thành quốc gia độc lập, người dân được tự do, làm chủ vận mệnh của mình và được hưởng hạnh phúc thực sự. Nhất là, sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, với chính sách ngày càng hoàn thiện, đồng bộ và đi vào cuộc sống, bảo đảm an sinh xã hội của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trên các lĩnh vực. Trong đó, đáng chú ý là: thu nhập bình quân đầu người trong những năm đầu đổi mới chỉ khoảng 250 USD/năm, thì đến năm 2024 đạt 4.700 USD, đứng thứ năm trong ASEAN. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống còn 1,93% năm 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều, được Liên hợp quốc xếp là một trong những nước đứng đầu về thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Văn hóa - xã hội có bước phát triển tích cực; dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng; quyền làm chủ của người dân ngày càng được phát huy. Mới đây, Bộ Chính trị (khóa XIII) đã quyết định từ đầu năm học mới 2025 - 2026, trên phạm vi cả nước sẽ miễn toàn bộ học phí cho học sinh từ bậc mầm non đến hết bậc phổ thông trung học công lập. Thời gian tới, Việt Nam sẽ rà soát lại tổng thể các chương trình, kế hoạch, đề án liên quan đến chăm sóc sức khỏe cho nhân dân để bổ sung, sửa đổi cho phù hợp tình hình mới; thống nhất thực hiện chủ trương khám sức khỏe định kỳ cho nhân dân ít nhất mỗi năm một lần; nghiên cứu xây dựng đề án với lộ trình từng bước giảm gánh nặng chi phí y tế cho người dân, tiến tới miễn viện phí toàn dân vào giai đoạn từ 2030 - 2035. Những nỗ lực đó còn được minh chứng trong Báo cáo Hạnh phúc Thế giới 2025 do Trung tâm Nghiên cứu Hạnh phúc của Đại học Oxford (Anh) công bố ngày 20/3/2025, Việt Nam xếp thứ 46 trong số 143 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng, nằm trong số các nước có xếp hạng chỉ số hạnh phúc liên tục tăng nhanh trong 3 năm trở lại đây (năm 2022 xếp thứ 77, năm 2023 xếp thứ 65 và năm 2024 xếp thứ 54).

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nói trên luôn gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là minh chứng sinh động bác bỏ luận điệu đất nước đã độc lập, nhưng dân thiếu hạnh phúc”. Đồng thời, khẳng định Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là mục tiêu, khát vọng và sự lựa chọn đúng đắn của dân tộc Việt Nam, không thế lực nào có thể xuyên tạc, kích động/.

 

 

Jun 17, 2025

Trần Nhật Minh “bóp méo” sự thật


Gần đây, bài viết có tiêu đề “Báo chí cách mạng: Đi theo Đảng là đang đi theo đĩ” tác giả Trần Minh Nhật, đăng tải trên trang “Bureau CTM Media - Á Châu” đã gây phẫn nộ trong dư luận yêu nước. Không chỉ là một lời nhận định phiến diện, bài viết này đã trượt dài thành sự xúc phạm, bóp méo và phi lý khi đánh đồng những người làm báo với hình ảnh thấp hèn và vô đạo đức của “Y”.

Trước hết, cần khẳng định rõ rằng: phản biện xã hội là cần thiết và đáng trân trọng trong một xã hội dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, phản biện không thể là cái cớ để lăng mạ, hạ thấp nhân phẩm con người và càng không được dùng ngôn từ thiếu văn hóa để kích động thù hận, chia rẽ dân tộc. Bài viết nói trên không hề mang tính phản biện, mà là một sản phẩm của truyền thông bẩn, được tạo ra với mục đích duy nhất là tạo ra sự hỗn loạn trong nhận thức xã hội.

1. Ngày 21/6/1925, Chủ tịch Hồ Chí Minh (khi đó là Nguyễn Ái Quốc) cho ra đời tờ Thanh Niên, tờ báo đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Đây là sự kiện được chọn làm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam; từ tờ “Thanh Niên” ấy, báo chí cách mạng đã gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, là công cụ để truyền bá tư tưởng tiến bộ, cổ vũ lòng yêu nước và thức tỉnh hàng triệu trái tim bị áp bức. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, báo chí Việt Nam là ngòi bút thép bên cạnh những khẩu súng, là ánh sáng trong đêm tối và là tiếng nói của nhân dân giữa những thời khắc sinh tử của đất nước, đến ngày nay, trong thời bình, báo chí vẫn đóng vai trò giám sát quyền lực, là nơi phản ánh những bất cập, tiêu cực, là tiếng nói của người dân, đặc biệt là những người yếu thế. Hàng trăm phóng viên điều tra, hàng nghìn bài viết phanh phui sai phạm, bảo vệ công lý - đó là bằng chứng sống động cho thấy: Báo chí cách mạng không phải là “đi theo” ai một cách mù quáng, mà là đi cùng nhân dân trên con đường xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

2. “Đi theo Đảng” là đi theo lý tưởng dân tộc, không phải là hành vi vô đạo đức. Một trong những ngụy biện mà Trần Minh Nhật đưa ra là: Gán ghép sự phục vụ lý tưởng chính trị với hành vi vô đạo đức - gọi đó là “đi theo đĩ”. Đây là một sự đánh tráo khái niệm nguy hiểm, đi ngược lại cả logic lẫn đạo đức xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo được lịch sử lựa chọn, nhân dân tin tưởng, đã dẫn dắt dân tộc từ kiếp nô lệ đến độc lập, từ chiến tranh đến hòa bình, từ đói nghèo đến phát triển. Báo chí cách mạng, với tư cách là một phần trong hệ thống chính trị, gắn bó với Đảng không phải vì quyền lực, mà vì lý tưởng giải phóng con người, xây dựng xã hội tốt đẹp hơn. Nói “đi theo Đảng là đi theo đĩ” chẳng khác nào xúc phạm hàng triệu người Việt Nam yêu nước, đang cống hiến trong các cơ quan báo chí, lực lượng vũ trang, giáo dục, y tế - những người tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Không một nền dân chủ thực sự nào lại cho phép tự do ngôn luận trở thành tự do xúc phạm như vậy.

3. Báo chí Việt Nam hiện đại: Không thuần túy “tuyên truyền”, mà là diễn đàn phản biện và giám sát. Một trong những lập luận phản động khác của Trần Minh Nhật là cho rằng báo chí Việt Nam chỉ là công cụ tuyên truyền mù quáng cho Đảng. Đây là cái nhìn thiển cận và thiếu hiểu biết. Thực tế, báo chí Việt Nam hiện nay rất đa dạng về nội dung, hình thức và góc nhìn. Ngoài các tờ báo chính trị – xã hội lớn như Nhân Dân, Lao Động, Công An Nhân Dân, còn có hàng trăm tờ báo chuyên ngành, báo điện tử, tạp chí khoa học, báo điều tra, báo kinh tế, văn hóa, môi trường, v.v. Trong đó, nhiều tờ báo đã dũng cảm đi đầu trong việc phản biện chính sách, phát hiện sai phạm, bảo vệ quyền lợi người dân. Ví như, những loạt bài điều tra về gian lận thi cử, sai phạm trong đất đai, tham nhũng trong y tế, bạo lực học đường,… không những không “tô hồng”, mà còn vạch trần những góc khuất của xã hội, thúc đẩy cải cách và tăng cường minh bạch.

4. Tự do ngôn luận không thể là tự do xúc phạm và phá hoại. Tự do ngôn luận là một giá trị phổ quát, nhưng không có nghĩa là tự do vô giới hạn. Mọi nền pháp luật tiến bộ trên thế giới, kể cả các nước phương Tây, đều quy định rõ: Tự do ngôn luận không được xâm phạm danh dự, nhân phẩm người khác, không được kích động hận thù, chia rẽ dân tộc, hoặc bóp méo sự thật. Việc sử dụng cụm từ “đi theo đĩ” để nói về người làm báo, về những công dân đang phục vụ trong hệ thống chính trị là một sự xúc phạm nghiêm trọng, không chỉ đến cá nhân cụ thể mà đến cả một nền tảng đạo đức xã hội. Nếu ai cũng được quyền phát ngôn tùy tiện như thế, thì xã hội sẽ lộn xộn, niềm tin sẽ bị phá vỡ và bạo lực ngôn từ sẽ trở thành công cụ giết chết chân lý.

Tóm lại, trong thời đại mà thông tin trở thành quyền lực, chúng ta cần tỉnh táo và đấu tranh bác bỏ những luận điệu “bóp méo” sự thật, xuyên tạc, phản động của Trần Minh Nhật./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)

 

Jun 16, 2025

Sắp xếp tinh, gọn bộ máy để đất nước phát triển

       Bất chấp sự quan tâm của dư luận quốc tế và sự tin tưởng của nhân dân Việt Nam đối với cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị mà Đảng, Nhà nước Việt Nam đang khẩn trương thực hiện để đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Tiến Văn đã đăng bài: “Thay đổi cấu trúc hành chính đất nước đi về đâu?” trên trang “Doithoaionline”. Nội dung của bài viết thể hiện rõ sự lợi dụng bối cảnh tinh gọn để cố tình xuyên tạc cho rằng Đảng, Nhà nước Việt Nam đang “ngụy biện”, “lừa dối dân chúng”. Những “phát ngôn” của Tiến Văn mang tính võ đoán, suy diễn, tự phát, trái với mục tiêu, chủ trương tinh gọn của Đảng, Nhà nước Việt Nam nên cần đấu tranh và khẳng định như sau:

       Thứ nhất, việc sắp xếp tinh, gọn bộ máy là sự thể hiện quyết tâm chính trị, kiên định mục tiêu vì lợi ích của nhân dân, vì sự phát triển đất nước của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Mục tiêu vì lợi ích của nhân dân, vì sự phát triển đất nước là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa đã được Đảng, Nhà nước Việt Nam kiên định thực hiện từ ngay khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, thiết lập nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Việc sắp xếp tinh, gọn bộ máy không phải là phá vỡ, đập đi xây mới hoàn toàn theo nghĩa phủ định sạch trơn mà chỉnh đốn và kiện toàn, nâng cao tính thống nhất cho các máy ấy ăn khớp với nhau. Đặc biệt, là gột rửa sạch những bệnh quan liêu, mệnh lệnh, hình thức; luôn luôn đi sát với quần chúng; làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực hành cần, kiệm, liêm, chính, thực hiện dĩ công vi thượng. Cội nguồn của sắp xếp tinh, gọn bộ máy là từ nhu cầu, lợi ích của nhân dân với tư cách là chủ, làm chủ; nhân dân tích cực tham gia xây dựng và sự giám sát tổ chức bộ máy, phản ánh, phê bình đối với các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị trong suốt quá trình xây dựng, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

         Sắp xếp tinh, gọn bộ máy là để gần dân hơn, giải quyết những vấn đề an sinh xã hội sát với yêu cầu và nâng cao chất lượng phục vụ người dân tốt hơn với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của Nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên là quyết tâm chính trị được Đảng, Nhà nước Việt Nam nỗ lực, kiên quyết chỉ bàn làm không bàn lùi. Quyết tâm này, không dừng ở khẩu hiệu, lời hô hào mà đã trở thành hiện thực bằng kết quả gần 40 năm đổi mới và là minh chứng đập tan luận điệu xuyên tạc cho rằng lí do của sắp xếp tinh gọn bộ máy chỉ là việc “lừa dối dân chúng”; “bất chấp cả những rủi ro, hiểm họa cho dân chúng, cho đất nước” trong bài viết của Tiến Văn.

         Thứ hai, thực tiễn đã chứng minh mục tiêu sắp xếp tinh, gọn bộ máy của Đảng, Nhà nước Việt Nam là đúng đắn và được tiến hành trên cơ sở khoa học vững chắc với lộ trình rõ ràng, cụ thể. Mục tiêu sắp xếp tinh, gọn bộ máy là giải quyết vấn đề nội tại như sự cồng kềnh, tiêu tốn nguồn lực quốc gia, làm chậm quá trình ra quyết định, gây khó khăn trong việc thực hiện chính sách, loại bỏ điểm nghẽn trong hệ thống quản lý tạo thuận lợi hơn cho môi trường đầu tư, kinh doanh, thu hút nhiều hơn nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tạo động lực phát triển bền vững cho đất nước. Mục tiêu này là sự kế thừa kinh nghiệm cải cách bộ máy thành công của nhiều quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Anh, Singapore, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, chuyển đổi số, rút ngắn thời gian xử lý thủ tục hành chính, nâng cao hiệu suất làm việc và cải thiện chất lượng dịch vụ công bằng cách ứng dụng công nghệ để thay thế nhân sự hành chính truyền thống, sử dụng hệ thống chính phủ số nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ người dân.

            Việc sắp xếp tinh, gọn bộ máy đã được Việt Nam tiến hành thường xuyên theo lộ trình rõ ràng, cụ thể, khoa học, so với những lần trước, lần tinh gọn này không chỉ khác biệt về quy mô và cách tiếp cận, mà còn ở tư duy chiến lược lâu dài. Từ chỗ “giảm tải” thành “tái thiết” hướng tới một hệ thống chính trị không chỉ gọn nhẹ mà còn vận hành hiệu quả, phù hợp với xu hướng quản trị tiên tiến của thế giới. Nhận định về tinh gọn bộ máy nhà nước của Chính phủ Việt Nam được dư luận quốc tế ủng hộ mạnh mẽ. Các Báo như: The Straits Times của Singapore cũng như Bangkok Post và Kaohoon International của Thái Lan đều đánh giá việc tinh gọn bộ máy nhà nước của Việt Nam là bước chuyển lớn, được Việt Nam thúc đẩy nhanh chóng và hiệu quả. Thực tiễn đó, đã cho thấy những lời bàn về cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy ở Việt Nam chỉ là một “động thái thay đổi”, “sự thay đổi hấp tấp”, “một sự quyết ý độc đoán”, “bốc đồng” hoặc những bày tỏ “lo lắng” về kết quả tinh gọn mà Tiến Văn đã đưa ra là sự đơm đặt, trái với mục tiêu, lộ trình mà Việt Nam đang thực hiện!

          Việt Nam đang thay đổi mạnh mẽ với những bước chuyển mình vững chãi từ nhiều chiến lược đột phá, lịch sử trên các lĩnh vực để đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Cuộc cách mạng tinh, gọn bộ máy là một trong những đột phá chiến lược nhằm xây dựng bộ máy hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, tạo tiền đề cơ bản để phát triển đất nước. Mỗi người dân, cán bộ, đảng viên cần nhận thức đúng đắn, tin tưởng những đột phá chiến lược của Đảng, Nhà nước và nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực đấu tranh với mọi luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng tinh, gọn bộ máy hiện nay./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)


Jun 11, 2025

Miễn viện phí cho toàn dân là mục tiêu hiện thực

           Trên trang “Baotiengdan”, Vũ Hoàng Linh đăng bài: “Miễn viện phí cho toàn dân: giấc mơ có thực?”, cho rằng: “Chưa miễn phí mà bệnh nhân đã phải chung giường rồi… Rồi miễn phí thì chắc tranh nhau đến cả nằm đất…”; “ở một đất nước mà ngân sách y tế còn eo hẹp, bệnh viện tuyến trên vẫn quá tải, và người dân ở những vùng sâu, vùng xa còn phải đi hàng chục cây số để siêu âm hay lấy thuốc, việc bàn đến miễn viện phí cho toàn dân có vẻ như một lời hứa xa vời”. Thực tế, Vũ Hoàng Linh đang cố tình xuyên tạc chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cần khẳng định rằng, việc miễn viện phí cho toàn dân là điều Việt Nam hoàn toàn làm được.

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên phát triển hùng cường, giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Công tác chăm sóc sức khoẻ Nhân dân cần hướng đến mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, mọi người dân đều được sống lâu, sống khỏe, sống lành mạnh, sống hạnh phúc; nguồn nhân lực phải có đủ sức khỏe về thể chất, tinh thần, trí tuệ và đạo đức để thực hiện mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Như vậy, miễn viện phí cho người dân không chỉ là định hướng chiến lược lâu dài mà còn là mục tiêu của cả hệ thống chính trị nói chung, ngành y tế nói riêng. Đây là chính sách chạm đến trái tim hàng triệu người dân, đồng thời là mong mỏi của người dân và toàn ngành y tế Việt Nam.

Thứ hai, hiện thực hóa miễn viện phí cho toàn dân, trước mắt Việt Nam sẽ khẩn trương nghiên cứu, triển khai kiện toàn hệ thống tổ chức ngành y tế từ Trung ương tới cơ sở phù hợp mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, gắn với mô hình phân tầng kỹ thuật y tế rõ ràng, hiệu quả, bảo đảm tính kế thừa, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cấp, các tuyến y tế chuyên môn. Đặc biệt quan tâm, củng cố, nâng cao năng lực y tế tuyến cơ sở. Đây là tuyến y tế gần dân nhất, đóng vai trò “gác cửa” của hệ thống y tế quốc gia, cần được củng cố toàn diện, bảo đảm chức năng chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng, quản lý bệnh mãn tính, phát hiện sớm và điều trị ban đầu, khám sức khỏe định kỳ, cập nhật sử dụng hồ sơ sức khỏe điện tử, v.v. Vì vậy, cần xây dựng hệ thống y tế tuyến cơ sở vững mạnh, đủ năng lực, đủ con người, đủ công nghệ, phải là nơi người dân đặt niềm tin và hy vọng. Chỉ như vậy, mới có thể thực hiện được việc chăm sóc sức khỏe toàn dân một cách bền vững, công bằng và hiệu quả.

Thứ ba, Việt Nam sẽ rà soát lại tổng thể các chương trình, kế hoạch, đề án liên quan đến chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân để bổ sung, sửa đổi cho phù hợp tình hình mới; thống nhất thực hiện chủ trương khám sức khỏe định kỳ cho Nhân dân ít nhất mỗi năm một lần; nghiên cứu xây dựng đề án với lộ trình từng bước giảm gánh nặng chi phí y tế cho người dân, tiến tới miễn viện phí toàn dân vào giai đoạn từ 2030-2035. Miễn viện phí cho toàn dân đòi hỏi quyết tâm, nỗ lực và sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, ngành, địa phương, trên cơ sở: tăng ngân sách cùng với đồng bộ hoàn thiện thể chế, kiện toàn tổ chức, nguồn lực tài chính, nhân lực, cơ sở hạ tầng, đồng thời nâng cao năng lực y tế cơ sở, đến cải thiện tốt hơn việc cung ứng dịch vụ công theo lĩnh vực ở nước ta trong thời gian tới. Đồng thời, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, rà soát các chương trình hiện hành, phân kỳ thực hiện theo nhóm đối tượng ưu tiên là hướng đi phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay. Để chủ trương miễn viện phí toàn dân sớm đi vào đời sống xã hội, theo Bộ Y tế, lộ trình triển khai chính sách dự kiến chia làm hai giai đoạn: giai đoạn 2026-2030, tập trung tăng cường y tế tuyến cơ sở, bảo đảm 90% dân số được chăm sóc y tế dự phòng; miễn viện phí cho nhóm người yếu thế: người già, người cao tuổi, người neo đơn, người tàn tật, người nghèo, cận nghèo, gia đình chính sách, trẻ em, đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng cao, vùng xa, biên giới, hải đảo, v.v. Giai đoạn 2030 - 2035, triển khai miễn viện phí toàn dân đồng bộ với bảo hiểm y tế bắt buộc và cải cách cơ chế thanh toán y tế trên cơ sở huy động tối đa các nguồn lực, nhất là ngân sách Nhà nước và xã hội hóa tài chính y tế.

Một lần nữa, cần khẳng định rằng: việc miễn viện phí cho toàn dân giai đoạn 2030 - 2035 là hoàn toàn có thể thực hiện được. Việc các thế lực thù địch bôi nhọ, vu cáo, trắng trợn, xuyên tạc chủ trương miễn viện phí cho toàn dân ở Việt Nam, là đi ngược lại chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa và lợi ích nguyện vọng, chính đáng của Nhân dân. Chúng ta cần đề cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn./.

(Trich nguồn: nhanvanviet.com)

 

Vạch trần luận điệu xuyên tạc của Việt Tân

            Tre Việt - Ngày 11/6, trang facebook Việt Tân đăng staus “Đất nước nào hàng giả tràn ngập, thì đất nước đó có nhiều lãnh đạo giả và người thi hành công vụ giả tràn lan”. Đây là luận điệu quy chụp, thể hiện ý đồ chính trị hết sức phản động của Việt Tân khi núp bóng một vấn đề kinh tế - xã hội đang được nhân dân ta quan tâm trong thời gian gần đây là tình trạng hàng giả, hàng nhái để xuyên tạc tình hình, bóp méo bản chất sự việc, kích động, gây hoài nghi, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Từ đó, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, hướng đến mục tiêu lật đổ thể chế chính trị hiện hành.

Trước hết, cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng, tình trạng sản phẩm giả mạo, kém chất lượng không chỉ tồn tại ở Việt Nam, mà đây còn là vấn nạn tại nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển lâu đời, như: Hoa Kỳ, Đức, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. Đây là hậu quả của sự suy đồi đạo đức trong kinh doanh, của lòng tham vô độ và sự tiếp tay của một số cán bộ, doanh nghiệp bất chấp pháp luật để trục lợi. Việc đấu tranh chống hàng giả, hàng nhái là yêu cầu khách quan của bất kỳ quốc gia nào trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.

Ở Việt Nam vấn nạn hàng giả, hàng nhái kém chất lượng hiện nay vẫn có nhiều “cơ hội” trà trộn nghiễm nhiên có mặt ở khắp nơi từ vùng quê cho đến thành thị thậm chí là tại những trung tâm thương mại cao cấp tại các thành phố lớn, như: Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Hầu hết các nhãn hiệu uy tín trong và ngoài nước đều bị làm giả một cách tinh vi từ màu sắc, kiểu dáng, mẫu mã vô cùng phong phú, muôn vàn các mức giá, thậm chí tem nhãn chống hàng giả vẫn bị làm giả, khiến người tiêu dùng khó mà phân biệt đâu là hàng thật đâu là giả. Trong khi đó, hàng giả không chỉ được mua bán trực tiếp mà còn được đưa lên gian hàng trực tuyến, mua bán online nên công tác kiểm tra, quản lý, xử phạt gặp nhiều khó khăn, nên mỗi ngày các sản phẩm giả mạo vẫn ngang nhiên xuất hiện và lộng hành hơn. Hàng nhái gây tổn thất về mặt tài chính cho người tiêu dùng, không chỉ dừng lại ở đó mà các sản phẩm thuốc chữa bệnh, thực phẩm chức năng,… bị làm giả thì hậu quả ảnh hưởng đến sức khỏe thật sự khôn lường. Còn doanh nghiệp có hàng bị làm nhái khiến doanh thu giảm sút, mất lòng tin đối với khách hàng, mất đi cạnh tranh trên thị trường, gây thất thoát ngân sách, nguồn thu của Nhà nước, v.v.  

Việc lợi dụng vấn đề này để quy chụp trách nhiệm, đánh đồng giữa thực trạng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng đang tràn lan trên thị trường hiện nay, với chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, công chức thực thi công vụ của Đảng, Nhà nước ta là một sự ngụy biện phản động, vừa phi logic, vừa phản khoa học; không có bất kỳ mối liên hệ nhân quả nào giữa hàng giả, hàng nhái với cán bộ, công chức.

Chiêu trò “lập lờ đánh lận con đen” giữa một vấn đề kinh tế - xã hội (hàng giả, hàng nhái) với chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, công chức thực thi công vụ của Đảng, Nhà nước là thủ đoạn nguy hiểm, cố tình dẫn dắt dư luận theo hướng sai lệch, nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối trong xã hội. Dòi hỏi, mỗi người dân cần tỉnh táo, nhận diện rõ âm mưu của các thế lực thù địch, không để bị dẫn dắt bởi những luận điệu mị dân, trá hình.

Chống hàng giả, hàng nhái là một yêu cầu cấp thiết, nhưng chống lại những luận điệu lợi dụng hàng giả, hàng nhái để kích động, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ, cũng cần được xác định là một nhiệm vụ rất quan trọng để giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo cho đất nước phát triển bền vững./.

 

Jun 10, 2025

Lật tẩy luận điệu chống phá Đại hội XIV của Đảng

          Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sự kiện chính trị trọng đại, dự kiến diễn ra vào tháng 1 năm 2026 tại Thủ đô Hà Nội. Lợi dụng sự kiện chính trị trọng đại này, trên trang “Saigonhonew”, Minh Hai đã đăng bài viết: “Ván bài lật ngửa”. Bài viết này có một số luận điệu xuyên tạc, chống phá Đại hội XIV của Đảng.

1. Minh Hải xuyên tạc rằng, trước đại hội XIV, Đảng Cộng sản Việt Nam “nội bộ rối ren, đấu đá quyền lực, tranh giành ảnh hưởng chính trị”. Đây là luận điệu xuyên tạc, vu khống có chủ đích, nhằm hạ thấp uy tín và gây hoài nghi trong dư luận về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Như chúng ta đã biết, quá trình chuẩn bị Đại hội Đảng là một chuỗi hoạt động rộng lớn, dân chủ và minh bạch, bao gồm việc tổng kết thực tiễn, đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tới và đặc biệt là công tác nhân sự. Đây là thời điểm để các cấp ủy Đảng đánh giá khách quan, toàn diện về đội ngũ cán bộ, lựa chọn những đồng chí đủ đức, đủ tài để gánh vác trọng trách của đất nước. Quá trình này được tiến hành hết sức chặt chẽ, từ cơ sở đến Trung ương, thông qua các bước hiệp thương, lấy ý kiến, bỏ phiếu kín theo đúng quy định của Điều lệ Đảng.

Thực tế cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn duy trì sự đoàn kết, thống nhất cao độ từ Trung ương đến cơ sở. Nguyên tắc tập trung dân chủ được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đảm bảo mọi quyết sách đều là kết quả của quá trình thảo luận dân chủ, công khai và minh bạch. Đây là bản chất của một tổ chức chính trị chặt chẽ, có kỷ luật. Hơn nữa, trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, việc xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm không phải là biểu hiện của “nội bộ rối ren” mà là minh chứng cho sự trong sạch, vững mạnh và quyết tâm tự đổi mới, tự chỉnh đốn của Đảng. Chính nhờ những nỗ lực này mà Đảng ngày càng củng cố được uy tín và vị thế của mình trong lòng nhân dân.

Âm mưu quy chụp cho Đảng Cộng sản Việt Nam cái mác “đấu đá quyền lực” của Minh Hải là phi thực tế, thiếu khách quan và mang tính suy diễn. Bởi lẽ, quá trình chuẩn bị cho đại hội là giai đoạn tập trung trí tuệ và sự đồng thuận cao độ. Các quy trình thảo luận, góp ý về đường lối, chính sách và công tác nhân sự được tiến hành một cách dân chủ và chặt chẽ, từ cơ sở đến cấp Trung ương. Việc lựa chọn cán bộ không phải là sự “đấu đá quyền lực” mà là quá trình đánh giá toàn diện năng lực, phẩm chất và uy tín để tìm ra những người đủ tầm, đủ tài gánh vác trọng trách của đất nước.

2. Minh Hải cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đang phân chia quyền lực thành hai nhánh “Chính phủ - Hành pháp - Quân đội và Đảng - chính trị nội bộ -Công an”. Luận điệu này cực kỳ nguy hiểm, không phản ánh đúng bản chất hệ thống chính trị Việt Nam. Cách phân chia này là ngụy biện, nhằm gây hoang mang dư luận và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng.

Trước hết, cần khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với Nhà nước và toàn xã hội. Đây là nguyên tắc hiến định và là thực tiễn khách quan trong hệ thống chính trị Việt Nam. Việc tách biệt “Đảng, chính trị nội bộ” ra khỏi “Chính phủ, hành pháp, quân đội” như hai thực thể đối trọng là một sự nhầm lẫn cơ bản về vai trò của Đảng. Trên thực tế, Chính phủ, các cơ quan hành pháp, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đều được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng. Các tổ chức Đảng được thành lập và hoạt động trong mọi cấp độ của bộ máy nhà nước và các lực lượng vũ trang, đảm bảo mọi hoạt động đều tuân thủ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đây là sự lãnh đạo thống nhất, không phải sự phân chia hay đối lập.

Hơn nữa, việc gán ghép này hoàn toàn bỏ qua nguyên tắc tập trung dân chủ và mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị Việt Nam. Các quyết sách lớn của quốc gia đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng, được thảo luận và quyết định tại các cơ quan của Đảng, sau đó được Quốc hội thể chế hóa thành luật pháp và giao cho Chính phủ, các cơ quan hành pháp tổ chức thực hiện. Quân đội và Công an là công cụ bạo lực sắc bén của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh trật tự. Mối quan hệ giữa các cơ quan này là mối quan hệ phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện mục tiêu chung, chứ không phải là sự “phân chia quyền lực” thành các “nhánh” đối đầu.

Tóm lại, Bài viết của Minh Hải là sự xuyên tạc có chủ đích, là một cách nhìn sai lệch, không phản ánh đúng bản chất hệ thống chính trị Việt Nam. Đây không phải là những nhận định khách quan mà là các chiêu trò thâm độc, được tung ra nhằm phá hoại sự ổn định chính trị, làm nhiễu loạn thông tin, gây chia rẽ trong xã hội và làm suy yếu niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng trước thềm Đại hội XIV./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)

Jun 9, 2025

Tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp là hoàn toàn tự giác


Tre Việt - Ngày 09/6, trên trang facebook Chân Trời  Mới Media, Thiện Nhân có đăng bài “Sửa đổi Hiến pháp khi “góp ý” trở thành mệnh lệnh”, xuyên tạc kết quả tổ chức lấy ý kiến nhân dân về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, rằng: “Quá trình này không mang tính tự nguyện, mà là mệnh lệnh từ trên xuống dưới, buộc người dân và cán bộ phải nhấn nút “đồng ý”… Việc áp đặt ý chí tập thể một cách cưỡng bức không chỉ làm mất đi giá trị của sự tham vấn, mà còn khoét sâu vào khoảng cách giữa nhà nước và người dân”.

Nhân dân tích cực đóng góp ý kiến 
sửa đổi Hiến pháp qua ứng dụng VNelD
            Cần khẳng định rằng, sau hơn mười năm thực thi, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định vai trò là nền tảng pháp lý của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới với yêu cầu ngày càng cao về cải cách thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng và tinh gọn bộ máy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp trở nên cấp thiết. Đây là bước đi cần thiết nhằm tháo gỡ những rào cản hiện hữu, tạo hành lang pháp lý cho những bứt phá mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới. Chính vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này không chỉ là sự điều chỉnh kỹ thuật pháp lý đơn thuần, mà mang tính chiến lược, nhằm hiện thực hóa chủ trương lớn về sắp xếp, tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Trọng tâm sửa đổi tập trung vào các quy định liên quan đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ chế tổ chức chính quyền địa phương. Đây là những cấu phần then chốt trong cấu trúc quyền lực và vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Trên tinh thần lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã tổ chức một đợt lấy ý kiến rộng rãi về chủ trương sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013. Theo đó, bám sát Kế hoạch số 05/KH-UBDTSĐBSHP, ngày 05/5/2025 của Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, chỉ đạo của Chính phủ, việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết đã được các bộ, ngành, địa phương triển khai nghiêm túc, công khai, dân chủ, khoa học, đúng tiến độ. Quá trình tổ chức lấy ý kiến tuân thủ nghiêm túc sự chỉ đạo của cấp có thẩm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, đề cao trách nhiệm người đứng đầu và sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức; các hình thức lấy ý kiến được sử dụng rất phong phú, đa dạng. Qua thống kê, tổng số hội nghị triển khai, quán triệt và các hội nghị, hội thảo, tọa đàm lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết đã được tổ chức là hơn 288.000 cuộc. Đặc biệt, tính hết ngày 29/5/2025, theo thống kê của Bộ Công an, đã có hơn 20 triệu người dân tham gia góp ý trên ứng dụng VNeID. Việc lấy ý kiến nhân dân trên ứng dụng VNeID đã tạo thuận lợi cho người dân tham gia đóng góp ý kiến một cách trực tiếp, nhanh chóng, hiệu quả, vừa bảo đảm công khai, minh bạch, vừa bảo đảm thuận tiện cho người dân có thể góp ý, tham gia xây dựng chính sách bất cứ thời gian, địa điểm nào.

Dù được tổ chức trong thời gian ngắn, với yêu cầu gấp rút, nhưng đợt lấy ý kiến này đã thu được kết quả hết sức đáng mừng. Theo báo cáo tổng hợp kết quả, chỉ trong vòng 01 tháng (từ ngày 06/5 đến ngày 05/6/2025), đã có hơn 280 triệu lượt ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên toàn quốc gửi cho Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013; trong đó, tỷ lệ tán thành các nội dung sửa đổi, bổ sung đạt 99,75%. Điều đó, đã phản ánh sự đồng thuận, thống nhất rất cao trong toàn xã hội đối với chủ trương, đường lối mà Đảng, Nhà nước ta đề ra. Đây là biểu hiện sinh động của mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, khi “ý Đảng, lòng dân” hòa quyện. Khi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thì việc triển khai trên thực tế sẽ nhận được sự ủng hộ rộng rãi, sự đóng góp trí tuệ và tâm huyết của người dân.

Qua đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, rộng lớn này, tinh thần dân chủ, ý thức về quyền và trách nhiệm của nhân dân đã được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết. Từ các cơ quan Trung ương đến từng địa phương, từ các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp đến cộng đồng dân cư, các tầng lớp nhân dân - tất cả đều thể hiện sự quan tâm sâu sắc và chủ động đóng góp tiếng nói vào một văn kiện nền tảng cho đời sống chính trị - pháp lý của quốc gia. Đây hoàn toàn không phải là “mệnh lệnh”, lại càng không có sự “khoét sâu vào khoảng cách giữa nhà nước và người dân” như Thiện Nhân và Chân Trời Mới Media rêu rao. Luận điệu xuyên tạc lố bịch này cần bị lên án và đấu tranh bác bỏ./.

Jun 5, 2025

Sự võ đoán thiển cận của Quốc Việt

           Mới đây, trên trang “Vietnamthoibao”, Quốc Việt đã đăng bài viết “Việt Nam gia nhập WTO năm 2007: Phân tích các điểm lợi và hại”, xuyên tạc đường lối phát triển kinh tế đối ngoại và những thành tựu kinh tế Việt Nam đạt được từ khi gia nhập WTO. Quốc Việt cho rằng: “…Nhà nước biến việc tham gia WTO để biến Việt Nam thành một quốc gia làm thuê, biến (rất nhiều) người Việt Nam thành người làm thuê cho nước ngoài với mức lương rẻ mạt, không đủ sống và điều kiện làm việc tồi tệ”.

1. Cần khẳng định, Việt Nam gia nhập WTO là quyết định đúng đắn và những thành tựu về kinh tế của Việt Nam đạt được kể từ khi gia nhập WTO là không thể phủ nhận. Việt Nam ra nhập WTO là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng và nhà nước ta, nhằm tạo ra khả năng hội nhập kinh tế quốc tế, tạo động lực và là động năng mạnh mẽ để giúp Việt Nam phát triển kinh tế, nâng cao quyền lực mềm, ngày càng trở thành một quốc gia cạnh tranh và hiện đại, đồng thời mang lại cho người dân cuộc sống tốt đẹp hơn. Quyết định gia nhập WTO không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới trong quan hệ thương mại quốc tế của Việt Nam mà còn mang lại những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trong nước. Việt Nam đã có nền tảng để cải cách sâu rộng hơn về chính sách kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, quá trình này cũng đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng sản phẩm và chuẩn bị tốt hơn để đáp ứng những tiêu chuẩn cao của thị trường quốc tế.

Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã trải qua một hành trình đầy biến động nhưng cũng đạt được những thành tựu đáng tự hào. Những nỗ lực trong việc mở cửa nền kinh tế, cải cách thể chế và tăng cường hợp tác quốc tế đã mang lại cho Việt Nam không chỉ sự tăng trưởng vượt bậc về thương mại, mà còn giúp thu hút nguồn đầu tư nước ngoài lớn, góp phần làm thay đổi diện mạo nền kinh tế Việt Nam, giúp Việt Nam có vị thế vững chắc trong khu vực và trên thế giới. Đến hết năm 2024, GDP của Việt Nam đạt 476 tỉ USD, lọt top 32, nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Việc Việt Nam gia nhập WTO đã thúc đẩy sự tăng trưởng thương mại, mở rộng hợp tác kinh tế và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Tính đến tháng 10/2024, Việt Nam đã ký kết, thực thi 17 FTA và đang đàm phán 2 FTA khác. Trong đó, các FTA thế hệ mới, bao gồm Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… Qua đó, giúp Việt Nam tiếp cận sâu rộng vào các thị trường lớn, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2023, kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và EU đạt 72,3 tỷ USD. Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn nhất của EU trong ASEAN. Bên cạnh đó, thương mại với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc cũng ghi nhận nhiều tiến bộ, đưa Việt Nam trở thành đối tác thương mại quan trọng tại khu vực châu Á -      Thái Bình Dương. Nhờ mở rộng thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam đã có điều kiện cải thiện sản phẩm, nâng cao chất lượng và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế ngày càng khắt khe.

2. Việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng và Nhà nước, mang lại nhiều lợi ích cho cá nhân và đất nước. Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm và xem là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là một phần của hợp tác quốc tế, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước. Việt Nam hiện có hơn 500 doanh nghiệp dịch vụ được cấp phép đưa người lao động đến hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ làm việc, trong đó từ năm 2010 đến nay đã đưa trên 1,4 triệu lao động đi làm việc ở nước ngoài có thời hạn. Bình quân mỗi năm, các cơ quan, doanh nghiệp đưa khoảng 120.000 đến 143.000 lao động ra nước ngoài làm việc. Lượng kiều hối từ lực lượng lao động này gửi về đạt khoảng 3,54 tỉ USD, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Cùng với đó, công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được chú trọng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, doanh nghiệp.

Tóm lại, những luận điệu nêu ra trong bài viết của Quốc Việt đã bộc lộ dã tâm thâm độc, xuyên tạc sự thật về đường lối phát triển kinh tế đối ngoại và những thành tựu kinh tế Việt Nam đạt được từ khi gia nhập WTO của Đảng và Nhà nước, làm giảm lòng tin của Nhân dân với Đảng và chế độ. Do vậy, chúng ta cần hết sức cảnh giác, kiên quyết đấu tranh bác bỏ âm mưu, thủ đoạn trên./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)

 

Jun 3, 2025

Vũ Đức Khanh không hiểu gì về giá trị hạnh phúc

          Mới đây, trên trang “Bureau CTM Media - Âu Châu”, Vũ Đức Khanh lại tiếp tục đăng bài: “Độc lập nhưng tự do, hạnh phúc ở đâu”, trong đó có giật tít: “Sau ngần ấy năm độc lập, dân tộc có thật sự được tự do và hạnh phúc?…”. Những thông tin sai lệch của Khanh trong bài viết đã thể hiện sự không hiểu biết của y về giá trị của hạnh phúc.

1. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định. “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc chính là mục tiêu, “đích đến” của Đảng, Nhà nước ta. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “lấy dân là gốc”; Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”. Phấn đấu vì nhân dân, “lấy ấm no, hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu” không chỉ có ở Việt Nam mà còn là những giá trị bất biến mà nhân loại tiến bộ trên thế giới phấn đấu để đạt được.

2. Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: Đất nước ta từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện căn bản, toàn diện, vị thế, uy tín của đất nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Theo Báo cáo Hạnh phúc Thế giới 2025 do Trung tâm Nghiên cứu Hạnh phúc của Đại học Oxford (Anh) công bố ngày 20/3/2025, Việt Nam xếp thứ 46 trong số 143 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng, tăng 8 bậc so với năm 2023. Việt Nam nằm trong số các nước có xếp hạng chỉ số hạnh phúc liên tục tăng nhanh trong 3 năm trở lại đây.

Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, luận điệu xuyên tạc, phản động của Vũ Đức Khanh về hạnh phúc ở Việt Nam là hoàn toàn sai trái, bịa đặt, không đúng sự thật. Chứng tỏ Vũ Đức Khanh là kẻ không hiểu gì về giá trị hạnh phúc, về đất nước Việt Nam đang từng ngày phát triển bền vững, hùng cường và thịnh vượng. Dù rằng xã hội Việt Nam hiện nay còn không ít vấn đề cần giải quyết như: phân hóa giàu nghèo; tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn triệt để; dịch vụ chăm sóc y tế vẫn ở mức cao; ô nhiễm môi trường còn xảy ra ở một số nơi, v.v. Nhưng với những kết quả đã đạt được trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không chỉ góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp “vì hạnh phúc của Nhân dân” mà còn tạo ra một lực lượng xã hội hùng hậu có sức mạnh tương ứng, tự giác bảo vệ cho chế độ xã hội; bảo vệ Nhân dân khỏi những toan tính của những lực lượng phản động muốn phá hoại Nhà nước xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đó cũng là cơ sở niềm tin để khơi dậy khát vọng của Nhân dân ta về một xã hội xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc, một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài vì mục tiêu tối thượng là vì hạnh phúc của Nhân dân./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)