Jul 25, 2022

Bản án nghiêm khắc đối với các bị cáo vụ Tịnh thất Bồng Lai

           Tre Việt - Ngày 21/7, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã tuyên phạt các bị cáo trong vụ án: “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” tại Tịnh thất Bồng Lai với mức án cụ thể như sau: bị cáo Lê Tùng Vân 05 năm tù giam, các bị cáo: Lê Thanh Hoàn Nguyên, Lê Thanh Nhất Nguyên, Lê Thanh Trùng Dương cùng mức án 04 năm tù giam, bị cáo Lê Thanh Nhị Nguyên 03 năm 06 tháng tù giam và bị cáo Cao Thị Cúc là 03 năm tù giam.

Các bị cáo trong vụ Tịnh thất Bồng Lai
nghe tòa tuyên án

         Lợi dụng sự kiện này, trang facebook Chân Trời Mới Media đăng bài: Bản án Tịnh Thất Bồng Lai là chuyện “thích nhật từ và Bò”, xuyên tạc bản chất của vụ án cũng như hoạt động tố tụng của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Họ xuyên tạc rằng: “Các nhà quan sát tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam cho rằng ông Lê Tùng Vân và các thành viên của Tịnh Thất Bồng Lai đã bị chính quyền gán ghép cho một tội danh phi lý chỉ vì chính quyền muốn “triệt tiêu” một tổ chức đang thực hành quyền tự do tôn giáo”.

Theo thông tin từ các cơ quan điều tra, khẳng định rằng: “Tịnh thất Bồng Lai” hay “Thiền am bên bờ vũ trụ”, chỉ là hộ gia đình, nhà ở, không phải là cơ sở thờ tự tôn giáo theo quy định của pháp luật. Đây chỉ là một hộ gia đình do bà Cao Thị Cúc (sinh năm 1960) ngụ xã Long Hựu Đông, huyện Cần Đước về xã Hòa Khánh Tây (huyện Đức Hòa) làm chủ hộ, thời gian qua đã tự mạo xưng là “chùa”, “tịnh thất”, “thiền am”, nuôi trẻ mồ côi; những việc làm của họ trong thời gian qua, có sự tiếp tay của một số cá nhân, công ty kinh doanh lĩnh vực giải trí, quảng bá. Đặc biệt, nơi đây trong nhiều năm được đồn thổi và phao tin “hoa ưu đàm” để thu hút những người hiếu kỳ đã gây xôn xao dư luận và hiểu lầm về Phật giáo, lạm dụng pháp phục tu sĩ nhưng lại phản bác Phật giáo, làm nhiều việc không phù hợp khiến dư luận bức xúc. Tịnh thất Bồng Lai chỉ là mạo xưng, những người ở đây không phải là tu sĩ Phật giáo, không do Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Long An quản lý. Lợi dụng hình thức tu sĩ Phật giáo, lợi dụng hình thức cơ sở của giáo hội, lợi dụng hình thức nuôi những người cơ nhỡ làm từ thiện để trục lợi cho mình. Việc làm đó vi phạm về pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín của Tổ chức Phật giáo thế giới và tổ chức Phật giáo của Việt Nam.

Từ năm 2019 đến năm 2021, các bị can gồm: Lê Tùng Vân, Lê Thanh Hoàn Nguyên, Lê Thanh Nhất Nguyên, Lê Thanh Nhị Nguyên, Lê Thanh Trùng Dương, Cao Thị Cúc và Lê Thu Vân đã đăng tải  video clip và  bài viết trên các trang mạng xã hội; trong đó, có hai kênh YouTube: “5 Chú Tiểu - Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ” và “Nhất Nguyên - Hoàn Nguyên Official”. Các video clip và bài viết này có chứa nội dung sai sự thật, bịa đặt, xuyên tạc, nhằm tuyên truyền, kích động, xúc phạm đến uy tín của Công an huyện Đức Hòa; xúc phạm Phật giáo, xúc phạm danh dự và nhân phẩm của ông Trần Ngọc Thảo (pháp danh Thích Nhật Từ). Tại tòa, Hội đồng xét xử khẳng định rằng các chứng cứ, video clip buộc tội là sát thực, chính xác, đã được giám định độc lập. Hành vi của các bị cáo cũng gây ảnh hưởng tới uy tín của nhiều cá nhân, tổ chức và tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Tại phiên tòa, các bị cáo tỏ ra không ăn năn hối lỗi, liên tục phản bác cáo trạng, chối tội và việc phạm tội có tổ chức,… là những tình tiết tăng nặng. 

Theo Hội đồng xét xử, quy trình tố tụng của cơ quan điều tra vụ án này là đúng quy định pháp luật, khách quan, không có dấu hiệu sai phạm. Quá trình xét xử, các bị cáo trong vụ án có khiếu nại, nhưng không có chứng cứ chứng minh. Tòa cho rằng: ông Lê Tùng Vân có vai trò chủ mưu, chỉ đạo các bị cáo tạo lập kênh, đăng tải các video lên mạng xã hội, chỉ đạo Nhất Nguyên, Hoàn Nguyên biên soạn, dàn dựng và duyệt nội dung các video sai phạm trước khi đăng. Ông Lê Tùng Vân xúi giục người xem không tin vào luật pháp, phật giáo, đồng thời phát ngôn xúc phạm đến lợi ích cá nhân, tổ chức. Xét tính chất vụ án nghiêm trọng, hành vi của bị cáo Vân đã xúc phạm uy tín, danh dự Công an, Phật giáo nhiều lần, trường hợp có tổ chức, đủ yếu tố cấu thành tội. Với các bị cáo còn lại có vai trò đồng phạm, có hành vi nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử tuyên phạt mức án như trên là đúng đắn, nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.

Sự thực trên là minh chứng cho thấy, luận điệu mà “các nhà quan sát tôn giáo ở Việt Nam” rêu rao: ông Lê Tùng Vân và các thành viên của Tịnh Thất Bồng Lai đã bị chính quyền gán ghép cho một tội danh phi lý chỉ vì chính quyền muốn “triệt tiêu” một tổ chức đang thực hành quyền tự do tôn giáo là sự xuyên tạc, quy chụp nố bịch, cần đấu tranh, lên án bác bỏ./.

HRW lại phát ngôn hàm hồ

          Tre Việt - Ngày 22/7, kênh Việt ngữ Đài RFA đăng bài: “Tịnh Thất Bồng Lai: Bỏ tù cụ ông 90 tuổi – một điểm mới trong trấn áp nhân quyền ở Việt Nam”. Theo bài viết: các tổ chức nhân quyền quốc tế hôm 22/7 lên tiếng phản đối bản án mà tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An vừa áp đặt lên sáu người thuộc một nhóm tu tại gia là Tịnh Thất Bồng Lai. Tổ chức Theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch - HRW) thậm chí gọi đây là một điểm mới trong chiến dịch trấn áp nhân quyền ở Việt Nam. Đây lại là phát ngôn hàm hồ, vu cáo tình hình nhân quyền ở Việt Nam của HRW.

Những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nỗ lực bảo đảm thực thi đầy đủ các quyền của công dân trên thực tế theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Điều này đã, đang tạo động lực thúc đẩy con người phát triển toàn diện, đóng góp công sức, trí tuệ tùy theo khả năng của mình vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó tạo sức mạnh tổng hợp góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, các chính sách an sinh, xã hội được đẩy mạnh; được cộng đồng quốc tế đánh giá, khẳng định, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Những thành tựu đó là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, đã có một bộ phận công dân đi ngược lại lợi ích của cộng đồng, quốc gia, dân tộc, có những hành động, việc làm vi phạm pháp luật. Vì thế, các cơ quan chức năng thực thi pháp luật phải bắt giữ, điều tra, xét xử đúng người, đúng tội, không để oan sai, bỏ lọt tội phạm, để bảo đảm pháp luật được thực thi công bằng, khách quan, chính xác.

Trở lại vụ án xảy ra tại Tịnh Thất Bồng Lai (hay Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ), các cơ quan pháp luật của huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã bắt giữ, điều tra, đưa ra xét xử công khai nhóm 06 người hoạt động tại cơ sở này. Cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Long An đã chỉ ra rằng: Nhóm người thuộc Tịnh Thất Bồng Lai do Lê Tùng Vân cầm đầu đã đăng tải nhiều bài viết, video clip trên mạng xã hội Facebook và YouTube có thông tin sai sự thật, bịa đặt, xuyên tạc, nhằm tuyên truyền, kích động, xúc phạm uy tín của một số cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Long An. Hành động, việc làm đó đã vi phạm tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, được quy định tại Điều 331 Bộ Luật Hình sự 2015. Đã sống đến 90 tuổi, đáng lẽ Lê Tùng Vân phải gương mẫu, làm gương cho con, cháu, gia đình, dòng tộc. Nhưng không, ông ta lại có những hành động, việc làm mà pháp luật, cộng đồng không thể dung thứ. Với vi phạm gây ra, Lê Tùng Vân phải trả giá bằng bản án 05 năm tù là đúng người, đúng tội. Qua xét xử vụ án, một lần nữa khẳng định: mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước Hiến pháp, pháp luật, dù người đó là ai, bao nhiêu tuổi, giữ cương vị gì. Cần khẳng định rõ: việc xét xử công dân vi phạm pháp luật là hết sức bình thường không chỉ ở Việt Nam mà bất kỳ quốc gia nào cũng làm như vậy. Do đó, không thể gọi đây là hành động trấn áp nhân quyền.

Sự thật đã rõ, song HRW lại không nhìn nhận khách quan về vụ án mà cố tình suy diễn, rồi phát ngôn hàm hồ, vu cáo tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Nhưng sự thật mãi là sự thật. Sớm muộn gì dã tâm xấu độc của một số tổ chức quốc tế vốn thiếu thiện chí với đất nước, chế độ xã hội ở Việt Nam như HRW  cũng sẽ bị phơi bày./.

Jul 23, 2022

Không thể lợi dụng quyền tự do lập hội để chống phá

          Tre Việt - Trang facebook Chân Trời Mới Media ngày 21/7 đăng bài: “Ước mơ về quyền tự do lập hội ở Việt Nam” với ngụ ý lên án ở Việt Nam không có tự do lập hội. Vậy thực tế có phải như vậy không?

Ở Việt Nam, trên phương diện pháp lý: trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật đều quy định rõ về quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Tại Điều 14, Hiến pháp 2013 - văn bản pháp lý cao nhất đã khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Và Điều 25 đã nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Như vậy: Quyền tự do ngôn luận của mọi công dân là quyền được tự do trong giới hạn mà pháp luật quy định, phù hợp với các giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Tự do ngôn luận khác với việc tùy tiện vu khống, bôi nhọ, xâm hại đến cá nhân, tổ chức. Trên thực tế: ở Việt Nam có hàng chục tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể từ Trung ương tới địa phương, cơ sở đại diện cho tiếng nói, nguyện vọng, lợi ích hợp pháp của các tầng lớp nhân dân đã được thành lập, hoạt động; hàng trăm cơ quan, báo chí với hàng chục nghìn nhà báo đang hoạt động, làm việc trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều này thể hiện và khẳng định Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn cố gắng, nỗ lực bảo đảm, thực thi các quyền của công dân theo Hiến pháp và pháp luật, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Vì thế, việc các thế lực thù địch lợi dụng mạng xã hội để công kích, lên án Việt Nam không có tự do lập hội, vi phạm dân chủ, nhân quyền là hoàn toàn không có cơ sở.

Trong bài viết có đoạn nêu: “…, Hội Nhà báo độc lập Việt Nam nhận cái trách nhiệm đấu tranh cho quyền tự do, trong đó có quyền tự do ngôn luận của báo chí” là không đúng và nực cười. Bởi thực chất, cái gọi là “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam” là một tổ chức bất hợp pháp, do Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy và 39 người khác tự đứng ra thành lập năm 2014; không được chính quyền cấp phép hoạt động. Mục đích của họ là đấu tranh làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Và trên thực tế, họ đã viết, đăng tải nhiều bài viết có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, bịa đặt, xâm phạm uy tín của Đảng, chống phá Nhà nước Việt Nam trên trang web và facebook “Việt Nam Thời Báo”. Đây là những việc làm, hành động lợi dụng tự do, dân chủ vi phạm pháp luật, chống phá Đảng, lật đổ chính quyền, Nhà nước. Chính vì thế, những nhân vật cộm cán của tổ chức này, như: Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn đã bị bắt giữ, điều tra, đưa ra xét xử và phải chịu những bản án nghiêm minh của pháp luật. Sự thật đã rõ, không gì có thể bao biện cho những hành động, việc làm sai trái đó, mà cần lên án, vạch trần trước công luận./.

Jul 20, 2022

Phản bác RFA xuyên tạc về chống tham nhũng

          Mới đây trên trang còm của RFA lại đăng bài xuyên tạc vấn đề tham nhũng ở Việt Nam, rằng cái thể chế chính là nguyên nhân của việc các quan chức mặc sức trục lợi và từ đấy tham nhũng ở Việt Nam nở rộ như rừng nấm mọc sau mưa! Họ xảo biện và quy chụp tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ xã hội chủ nghĩa, chỉ có thay đổi chế độ mới giảm được tham nhũng! rằng, nguồn tài chính có được từ tham nhũng dùng để vận động hành lang, vận động chính sách, chạy bằng cấp, chạy thành tích, chạy chức, chạy quyền, v.v. Cùng với vấn đề dân chủ, nhân quyền, vấn đề tham nhũng thường bị các thế lực chống đối lợi dụng để xuyên tạc, hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước ta. Dù ai cũng biết trên thực tế từ xưa đến nay, tham nhũng không phải là vấn đề của riêng một quốc gia, mà còn là hiện tượng tất yếu trong bất kỳ xã hội nào, dưới bất kỳ mô hình chính trị nào. Do vậy, luận điểm cho rằng, tham nhũng là “con đẻ”, là sản phẩm của thể chế xã hội chủ nghĩa là sự nhầm lẫn về cả về lý luận và thực tiễn. Đầu năm 2022, Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) do Tổ chức Minh bạch quốc tế công bố cho thấy, vấn nạn tham nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng trên phạm vi toàn cầu. Đáng chú ý, trong nhiều năm qua, hầu hết các quốc gia trên thế giới không có sự cải thiện đáng kể về hiệu quả phòng, chống tham nhũng; hiện vẫn có hơn 2/3 trong tổng số 180 quốc gia và vùng lãnh thổ được đánh giá chỉ đạt điểm dưới 50 trên thang điểm 100 của CPI.

Từ khi giành quyền lãnh đạo đất nước đến nay, Đảng CSVN luôn coi trọng phòng, chống tham nhũng. Ngay từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII năm 1994, Đảng xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ, đồng thời sớm ban hành và thường xuyên hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho công tác phòng, chống tham nhũng. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định 12 nhóm hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước, 3 nhóm hành vi tham nhũng khu vực ngoài nhà nước; xác định chi tiết các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) dành 7 điều (từ Điều 353 đến Điều 359) quy định các tội phạm tham nhũng. Không thể phủ nhận nhờ có sự quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, tình trạng tham nhũng ở ta từng bước được kiềm chế, ngăn chặn. Trong gần hai thập niên qua, chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) của Việt Nam ngày càng có xu hướng tích cực; năm 2021, đạt 39/100 điểm, tăng 3 điểm so với năm 2020, xếp thứ 87/180 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Chính RFA phải thừa nhận phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong những năm gần đây đạt những kết quả quan trọng, đặc biệt nhờ công cuộc “đốt lò” mà đứng đầu là TBT Nguyễn Phú Trọng và Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng. Trong 10 năm (2012-2022) có hơn 19.546 vụ/33.868 bị can đã bị khởi tố, điều tra, phần lớn về các tội tham nhũng, chức vụ, kinh tế. Trong đó có 170 cán bộ cấp cao diện TW quản lý, có 33 ủy viên, nguyên UVTW, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. v.v. Kết quả này chứng tỏ Đảng Cộng sản Việt Nam rất kiên quyết, kiên trì trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, xây dựng thể chế trong sạch hơn.

“Lò” chống tham nhũng được thổi bùng lên và duy trì đã tăng sức hấp dẫn cho Việt Nam như một điểm đến cho đầu tư nước ngoài. Ở Việt Nam, không ai đứng ngoài luật pháp, việc gần đây các ông Chu Ngọc Anh, Nguyễn Thanh Long, Phạm Công Tạc và một số nguyên tướng tá thuộc lực lượng Cảnh sát biển bị xử lý kỷ luật đảng, chính quyền và bị khởi tố tiếp tục minh chứng điều đó. Việc đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, nhất là vụ Việt Á, FLC, Tân Hoàng Minh, vụ án tại Cục Lãnh sự, Công ty cổ phần Tiến bộ quốc tế AIC, v.v. Việc kiểm soát hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn, đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền, đã góp phần nâng cao nhận thức về phòng, chống tham nhũng, củng cố niềm tin của nhân dân.

Cũng cần thấy, tham nhũng đang làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột xã hội, có thể châm ngòi cho các “điểm nóng” dư luận hay cuộc bạo lực vũ trang, thách thức sự ổn định và thịnh vượng của quốc gia, là cái cớ “ngon béo” để các thế lực thù địch can thiệp vào nội bộ, tuyên truyền xuyên tạc, làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Tham nhũng xuất phát trước hết từ nguyên nhân do những người có chức vụ bị suy thoái về phẩm chất đạo đức, không đủ bản lĩnh để chiến thắng cám dỗ của danh lợi, tiền tài, địa vị. Trong khi mặt trái cơ chế thị trường tạo ra sự chênh lệch, phân hóa giàu nghèo và tác động mạnh tới tư tưởng, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, kích thích tư duy nhiệm kỳ, chủ nghĩa thực dụng, cá nhân, chạy theo đồng tiền bất chấp đánh mất đạo lý, nhân cách. Phương thức giám sát quyền lực nhà nước có những nơi còn lỏng lẻo, cơ chế xin – cho vẫn còn phổ biến ở một số lĩnh vực; trình độ quản lý công, nhất là tài sản công, tài chính công chưa theo kịp thực tiễn; cải cách hành chính ở nhiều cơ quan còn chậm, v.v.

Việt Nam tiếp tục triển khai quyết liệt, kiên trì các biện pháp để cán bộ, đảng viên “không dám tham nhũng”, “không thể tham nhũng” bằng cách hoàn thiện cơ chế, chính sách nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, tập trung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật trong những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tham nhũng, như đầu tư xây dựng, đấu thầu, thu chi ngân sách, quản lý, sử dụng tài sản công,…; hoàn thiện các quy định về công khai, minh bạch hoạt tổ chức, về kê khai tài sản, kiểm soát thu nhập; xây dựng cơ sở dữ liệu để theo dõi sự biến động tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, gia tăng trách nhiệm chứng minh tài sản tăng lên đối với cán bộ; sớm ban hành Luật Bảo vệ nhân chứng để người dân tin tưởng, mạnh dạn hợp tác trong cuộc đấu tranh khó khăn, nhạy cảm này.

Những thực tế trên đã bác bỏ luận điệu sai trái của các thế lực xấu, thù địch, chống đối xuyên tạc vấn đề tham nhũng, nếu chưa xử lý người này người kia thì họ bịa đặt là bao che, mà khi xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên sai phạm thì lại cho là “đấu đá nội bộ”, là “phe cánh”! Ai zà ! Âm mưu, thủ đoạn chống phá của những kẻ thù địch, phản động, cơ hội chính trị rất tinh vi, thâm độc, luôn tìm cách xuyên tạc, phá hoại, chia rẽ đoàn kết. Vì vậy, cán bộ và người dân cần nâng cao tinh thần cảnh giác, phòng, tránh âm mưu chống phá, hoạt động “diễn biến hòa bình”, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ, bảo vệ đoàn kết nội bộ, đại đoàn kết dân tộc./.

(Nguồn: Hương Sen Việt)

 

Jul 18, 2022

CPJ cần chấm dứt ngay trò “vinh danh” các cá nhân vi phạm pháp luật Việt Nam

          Tre Việt – Ngày 14/7, Ủy ban Bảo vệ Ký giả (CPJ), công bố danh sách chủ nhân của giải thưởng Tự do Báo chí quốc tế năm 2022. Theo đó, bốn nhà báo từ châu Mỹ, châu Âu, và châu Á đã được vinh danh; trong đó, có Phạm Đoan Trang của Việt Nam. Lợi dụng vào đó, đài RFA đăng bài: “Nhà báo Phạm Đoan Trang được trao giải Tự do Báo chí quốc tế năm 2022”, nhằm xuyên tạc, bôi nhọ tự do báo chí ở Việt Nam; đồng thời, tung hô, cổ súy cho chiến tích của “nữ chúa trong làng zân chủ” - Phạm Đoan Trang. Họ cho rằng: “Giải thưởng này một lần nữa minh định cho sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế đối với những nỗ lực của Đoan Trang với việc phát triển báo chí độc lập, cũng như việc dân chủ hóa ở Việt Nam”.

Tre Việt cho rằng, việc CPJ trao giải thưởng “Tự do Báo chí quốc tế năm 2022” cho Phạm Đoan Trang - đối tượng đang phải chấp hành bản án 09 năm tù giam vì tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, theo quy định tại Điểm a, b, c, Khoản 1, Điều 88, Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là một hành động thiếu khách quan, không phù hợp. “Trò” này của CPJ mang ý đồ chính trị, họ đã tự “khoác” cho mình chiếc áo tự do báo chí để trắng trợn can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Cần khẳng định rằng, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là một trong những quyền tự do dân chủ về chính trị rất quan trọng đã được quy định trong các quy định của quốc tế. Mặc dù luật pháp quốc tế có những quy định về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, nhưng đó không phải là quyền tự do một cách tuyệt đối; trong khi thực hiện các quyền tự do này thì lại phải chịu một số hạn chế nhất định, mà hạn chế đó là vì lý do an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội và quyền tự do của người khác. Không có nền báo chí nào, dù là của phương Đông hay phương Tây, cổ vũ cho cái gọi là tự do vô hạn độ. Ngay tại nước Mỹ, nơi được mệnh danh là “thiên đường” tự do, nhưng nếu báo chí mà cổ động để lật đổ chế độ Mỹ xem, chắc chắn báo chí sẽ không còn tồn tại. Gần đây nhất, một tờ tạp chí của Mỹ - quốc gia được mệnh danh là bình đẳng, tự do, bác ái, chỉ một bức tranh biếm họa người đứng đầu tôn giáo Mohamed, tòa soạn đó lập tức bị tẩy chay. Phạm Đoan Trang đang chịu án tù ở Việt Nam mà CPJ lại trao giải thưởng này, đó là những điều phi lý và không có giá trị pháp lý.

Phạm Đoan Trang là một nhà báo, lẽ ra phải hoạt động, tác nghiệp theo đúng tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí, nhưng không, Trang đã lợi dụng quyền tự do báo chí để chống phá đất nước. Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội, trong khoảng thời gian từ ngày 16/11/2017 đến ngày 05/12/2018, Phạm Đoan Trang có hành vi làm, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, bài viết có nội dung nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra, Trang còn trả lời phỏng vấn truyền thông nước ngoài với nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân, v.v.

Điều đó cho thấy, Phạm Đoan Trang không xứng đáng với tư cách, phẩm chất của một nhà báo. Vì lẽ đó, việc CPJ trao giải thưởng Tự do Báo chí cho Phạm Đoan Trang là “trò” lố bịch về nhận thức. Việc làm đó là trò hề, nhằm cổ súy cho kẻ tuyền truyền chống phá nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. CPJ cần chấm dứt ngay “trò” “vinh danh” các cá nhân vi phạm pháp luật Việt Nam./.

Jul 10, 2022

Hội đồng Nhân quyền thông qua nghị quyết do Việt Nam cùng Bangladesh, Philippines đề xuất

  

Ngày 8/7 tại trụ sở Liên hợp quốc (LHQ) tại Geneva, Thụy Sỹ, Hội đồng Nhân quyền (HĐNQ) LHQ đã kết thúc khóa họp thường kỳ lần thứ 50, với 23 Nghị quyết và 1 Quyết định được thông qua, trong đó có Nghị quyết về biến đổi khí hậu (BĐKH) và quyền con người do Việt Nam cùng Bangladesh và Philipines soạn thảo và đề xuất, tập trung vào quyền lương thực và BĐKH.

Khóa 50 HĐNQ diễn ra từ ngày 13/6-08/7 theo hình thức kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến, bao gồm 9 phiên đối thoại với Cao ủy Nhân quyền LHQ; 8 phiên thảo luận chuyên đề về các chủ đề; và 27 phiên đối thoại với các Thủ tục đặc biệt; 1 phiên thảo luận khẩn cấp về tình hình nhân quyền của phụ nữ và trẻ em gái tại Afghanistan. Tại khóa họp, HĐNQ cũng đã xem xét, thảo luận 76 báo cáo chuyên đề; xem xét thông qua báo cáo Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của 13 nước; tiến hành bổ nhiệm nhân sự cho 8 Thủ tục đặc biệt. Quyền của phụ nữ là ưu tiên lớn nhất tạ khóa họp này với hầu hết các phiên thảo luận chuyên đề đều có chủ đề liên quan đến quyền của phụ nữ.

Đoàn Việt Nam do Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt dẫn đầu, đã tích cực tham dự khóa 50, trong đó cùng với Bangladesh và Philippines đồng tổ chức Phiên thảo luận chuyên đề về đảm bảo quyền của các nhóm dễ bị tổn thương trong bối cảnh BĐKH. Phiên thảo luận đã thu hút sự tham gia của đông đảo các quốc gia và tổ chức quốc tế như Quỹ dân số LHQ và một số tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Geneva.

Các diễn giả và đại biểu các nước, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ đều nhấn mạnh, BĐKH tạo ra cùng lúc khủng hoảng về môi trường sống và công bằng xã hội, trong đó những nhóm dễ bị tổn thường nhất, bao gồm các cộng đồng ở nông thôn, dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em, người di cư, người khuyết tật… tiếp tục gánh chịu những tác động tiêu cực nhất về quyền con người do BĐKH gây ra; kêu gọi các nước đảm bảo sự tham gia của các cộng đồng, tổ chức đại diện các nhóm dễ bị tổn thương trong xây dựng biện pháp, chính sách về ứng phó với BĐKH.

Với nỗ lực đề xuất, soạn thảo nội dung và vận động của Phái đoàn Việt Nam cùng các Phái đoàn Bangladesh và Philippines tại Geneva, ngày 7/7, HĐNQ đã thông qua bằng đồng thuận Nghị quyết năm 2022 về biến đổi khí hậu và quyền con người, tập trung vào quyền lương thực và BĐKH, với đông đảo các nước tham gia đồng bảo trợ. Đây là Nghị quyết được Việt Nam giới thiệu hàng năm về BĐKH và quyền con người, với trọng tâm mỗi năm tập trung vào từng nhóm cụ thể như quyền trẻ em, quyền sức khoẻ, quyền của người di cư, quyền phụ nữ… trong bối cảnh BĐKH. Sự tham gia tích cực trong nhóm nòng cốt xây dựng và giới thiệu Nghị quyết này của HĐNQ phản ánh nỗ lực của Việt Nam trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người cũng như trong ứng phó BĐKH, đồng thời góp phần thực hiện chính sách đối ngoại chủ động, tích cực, có trách nhiệm với các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế.

Đặc biệt nhân dịp khóa họp này của HĐNQ, Việt Nam đã tổ chức “Triển lãm ảnh về các cộng đồng dân tộc và tôn giáo tại Việt Nam: Hòa hợp trong đa dạng” tại trụ sở LHQ tại Geneva, Thụy Sỹ, khai mạc ngày 28/7 đúng vào ngày Gia đình Việt Nam. Thông qua triển lãm diễn ra từ ngày 28/6-8/7, bạn bè quốc tế hiểu thêm về cuộc sống hòa hợp của đại gia đình 54 dân tộc Việt Nam, với những nét đẹp văn hóa, di sản, tập tục thể hiện sự tự do về tôn giáo, tín ngưỡng của người dân Việt Nam, cũng như nỗ lực, thành tựu của Việt Nam về bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc, bảo đảm tự do tôn giáo, tín ngưỡng. 

Đoàn Việt Nam đã tích cực phát biểu tại 18 phiên họp như các phiên thảo luận về đảm bảo quyền của các nhóm dễ bị tổn thương trong bối cảnh BĐKH, quản trị tốt trong bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong và sau đại dịch COVID-19, hợp tác kỹ thuật và xây dựng năng lực nhằm thúc đẩy bình đẳng và sự tiến bộ của phụ nữ, quyền sức khỏe, quyền giáo dục…

Tại các phát biểu, đoàn Việt Nam đề cao chủ trương nhất quán, nỗ lực và thành tựu trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; khẳng định Việt Nam cam kết phát triển bền vững vì lợi ích của người dân, trong đó đặt người dân vào trung tâm của các biện pháp và chính sách của chính phủ trong quá trình phục hồi sau đại dịch COVID-19; kêu gọi cộng đồng quốc tế tiếp tục hỗ trợ các nước đang phát triển trong quá trình phục hồi sau đại dịch COVID-19 để quá trình này xanh hơn và bền vững hơn; nhấn mạnh tầm quan trọng của tính đa đạng về xã hội, văn hóa, lịch sử và chủ quyền quốc gia trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, đồng thời kêu gọi Văn phòng Cao ủy nhân quyền LHQ và các cơ chế nhân quyền LHQ hoạt động một cách công bằng và khách quan trên cơ sở các nguyên tắc khách quan, công bằng, đối thoại xây dựng và hợp tác. 

Cùng với các nước ASEAN, đoàn Việt Nam cũng đã có một số phát biểu chung về các chủ đề ASEAN cùng quan tâm, chia sẻ như hợp tác kỹ thuật và xây dựng năng lực nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ; BĐKH và quyền con người; quản trị tốt trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong và sau đại dịch COVID-19. Ngoài ra, đoàn Việt Nam tích cực tiếp xúc, trao đổi, tham vấn với các đoàn đại diện của các nước, tham gia xây dựng nội dung các văn kiện, đồng bảo trợ nhiều sáng kiến trên tinh thần đối thoại và hợp tác, thể hiện quan điểm, chính sách nhất quán, thành tựu của Việt Nam và quan điểm, thành tựu chung của ASEAN về thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người, góp phần cùng các nước đảm bảo hoạt động của HĐNQ phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.

Sự tham gia tích cực của đoàn Việt Nam tại khóa họp 50 của HĐNQ cùng với triển lãm nêu trên cũng như việc Việt Nam ứng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 thể hiện nỗ lực và trách nhiệm của Việt Nam, đồng thời góp phần tích cực kỷ niệm 50 năm Việt Nam tham gia LHQ (1977-2022)./.

           (Nguồn: Hương Sen Việt)

Phòng tránh “từ sớm, từ xa” để đất nước ta hạnh phúc

 

Quan điểm sai trái, thù địch là một dạng thông tin xấu, độc, loại “vi rút” gây bệnh, phá hoại tình yêu, cuộc sống an lành, hạnh phúc của mọi người; biểu hiện của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam của những người xấu. Quan điểm sai trái, thù địch dưới mọi hình thức biểu hiện đều trái ngược với lập trường, quan điểm, lợi ích của nhân dân và đối lập với hiến pháp, pháp luật của Nhà nước ta. Bản chất của nó là giả tạo, tuyên truyền sai sự thật; biến đúng thành sai, phải thành trái, thật thành giả; chứa đựng sự hằn thù, mưu đồ kích động, gây rối, làm mất ổn chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo ra sự “suy thoái”, biến chấtở một bộ phận người dân nhằm “chuyển hóa” chế độ ta theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, rất cần nhận thức đúng, phòng ngừa kẻxấu “từ sớm, từ xa” để chúng ta luôn an lành, hạnh phúc.

Ba nhóm quan điểm sai trái, thù địch cần nhận diện đúng

Những người có quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta là rất phức tạp, tập trung ở ba nhóm lớn, đó là: (1) Nhóm người chuyên nghiên cứu lý luận – thực tiễn, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ thông qua cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Nhóm này chủ yếu là các phần tử chống cộng và một số lãnh đạo ở một số quốc gia phương Tây. (2) Nhóm phần tử cực đoan chủ yếu là người Việt sống ở nước ngoài luôn lôi kéo, tập hợp lực lượng lưu vong cấu kết với một bộ phận văn nghệ sĩ, trí thức, công chức bất mãn ở trong nước, lập ra các tổ chức phản động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta. (3) Nhóm một số cán bộ, đảng viên (có một số đảng viên đã từng giữ chức vụ trung, cao cấp trong hệ thống chính trị của nước ta) suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và một bộ phận người dân do nhận thức lệch lạc, bị lôi kéo, bị mua chuộc nên theo đuôi bọn xấu. Đây là những người phản bội dân tộc, luôn đề cao chủ nghĩa cá nhân, không đồng ý với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về, giải quyết các vấn đề lợi ích và không thỏa mãn sự hài lòng, ham muốn của họ.

Quan điểm sai trái, thù địch có thể là những lời nói, bài viết, hành vi, hành động của cá nhân, nhóm xã hội, phản ánh xuyên tạc sự thật, bôi đen đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, con người Việt Nam hoặc thổi phồng mâu thuẫn, khuyết điểm, các tệ nạn xã hội, xuyên tạc, bóp méo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với mục đích xấu sa nhằm thiết lập chế độ chính trị – xã hội mới, đối lập với chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.

Tính hai mặt của “quan điểm khác” cần phân biệt rõ

Giữa quan điểm sai trái, thù địch” với “ý kiến khác” có sự khác nhau, cần nhận diện đúng, phân biệt rõ để tránh sai lầm trong nhận thức và hành động. Ý kiến khác là loại ý kiến “lấp lửng”, “nước đôi”, có thể là lời nói, bài viết với mục đích gây rối, chống đối, “sinh chuyện”, gây khó cho tổ chức nhưng cũng có thể là lời nói, bài viết mang tính xây dựng, sự góp ý, đề đạt, kiến nghị với chính quyền thoạt nghe rất “gai góc”, hàm chứa tính “bạo lực” nhưng suy xét kỹ nó chứa đựng “nhân tố hợp lý”, những người có trách nhiệm cần lắng nghe, cần tiếp thu vì nó có lợi cho cách mạng.

          Ý kiến khác có ba dạng: 1) Ý kiến của những người có động cơ, mục đích chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta, nhất thiết chúng ta phải đề cao cảnh giác, kiên quyết, kiên trì đấu tranh, loại bỏ; không được “dĩ hòa vi quý” với loại ý kiến này; 2) Ý kiến của những người do trình độ nhận thức còn hạn chế, thông tin chưa đầy đủ, cách tiếp cận không phù hợp, phát ra không đúng lức; chúng ta cần bình tĩnh lắng nghe và có biện pháp giáo dục, thuyết phục; 3) Ý kiến của những người có mong muốn góp ý, xây dựng với tinh thần trách nhiệm, quan điểm, thái độ khách quan, vô tư, trong sáng nhưng phương pháp, thái độ góp ý chưa phù hợp trong việc phát hiện những hạn chế, khuyết điểm, bất cập để những cán bộ có thẩm quyền “dễ nghe”, kịp thời bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách. Trong những tình huống này, chúng ta cần bình tĩnh lắng nghe, tiếp thu có chọn lọc với sự trân trọng.

Mục đích, chiêu trò, thủ đoạn của quan điểm sai trái, thù địch

Mục đích xuyên suốt và lâu dài của quan điểm sai trái, thù địch là phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và tính ưu việt của hệ thống chính trị Việt Nam, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng ta lãnh đạo. Vì vậy, những người này đã, đang và sẽ tiếp tục thực hiện âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, triệt để lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta, thông qua việc xây dựng các trang web, blog, tài khoản ở các máy chủ đặt ở nước ngoài làm “các máy cái, hà hơi, tiếp sức” cho các blog, tài khoản trong nước chống phá Việt Nam.

Các chiêu trò và thủ đoạn chống phá của quan điểm sai trái, thù địch là vô cùng nham hiểm, đó là: (1) Tạo các luồng dư luận xã hội xấu, độc; triệt để tận dụng và khái thác tối đa các phương tiện thông tin, truyền thông để tuyên truyền xuyên tạc, lừa gạt, làm nhiễu loạn đời sống tinh thần, từ đó làm lung lay niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, tiến tới lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. (2) Tiến hành nhiều hoạt động gián điệp, thúc đẩy “ngoại giao thân thiện”, tăng cường “viện trợ nhân đạo”, tìm cách tạo cớ để tiếp xúc với nhân dân ta, kết hợp với trao đổi văn hóa, y tế, giáo dục,… để truyền bá tư tưởng chính trị, lối sống thực dụng và văn hóa phương Tây vào Việt Nam, thực hiện chiêu thức “mưa dầm thấm sâu”, “nước chảy đá mòn” để chuyển hóa Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa. (3) Kiềm chế sự phát triển nền kinh tế Việt Nam thông qua việc sử dụng các chiêu bài “kinh tế” để biến nước ta ngày càng lệ thuộc, bị ràng buộc bởi phương Tây hoặc thêm khó khăn về kinh tế, từ đó gây áp lực về chính trị, đặt ra các yêu sách về chính trị để xâm nhập, chuyển hóa, khống chế và khi cần sẽ sử dụng các đòn “trừng phạt kinh tế” buộc chúng ta phải nhượng bộ về chính trị. (4) Nuôi dưỡng các “thế lực dân chủ”, “gieo trồng hạt giống tự do”, từng bước phá hoại “bức tường đồng, vách thép” của chủ nghĩa xã hội; tiến tới “giải phóng dân chủ” ở Việt Nam.

Nội dung và phương thức thể hiện quan điểm sai trái, thù địch

Nội dung của quan điểm sai trái, thù địch là chống phá, xuyên tạc, phủ nhận giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới ở Việt Nam; tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận những cống hiến, đóng góp của Người cho dân tộc, cho nhân loại; kêu gọi “dân chủ”, “nhân quyền”, “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”, đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang; phủ nhận thành tựu cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo; thổi phồng khuyết điểm, hạ thấp và phủ nhận thành tựu đổi mới đất nước; xuyên tạc, bội nhọ, hạ thấp uy tín, vị thế của các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội, Công an…

Phương thức chống phá của các quan điểm sai trái, thù địch rất đa dạng, đó là: (a) Lợi dụng các trang mạng lớn trên thế giới để chống phá Việt Nam; (b) Sử dụng và nhân rộng mạng lưới cộng tác viên để viết bài, đưa tin chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta; (c) Sử dụng các thông tin chống phá Việt Nam của các quốc gia, tổ chức quốc tế lớn, những cá nhân có ảnh hưởng lớn ở trong và ngoài nước để tán phát thông tin xấu, độc; (d) Tạo dựng các trang web, blog các tài khoản cá nhân trên mạng xã hội, đặc biệt là trên facebook, youtube để chia sẻ (share), phát tán thông tin; (e) Nắm bắt, tận dụng thời cơ, thời điểm quan trọng, nhất là lợi dụng các vấn đề, sự cố lớn của đất nước để phát tán thông tin xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước…

Các thủ đoạn, chiêu bài và hình hài của quan điểm sai trái, thù địch

Các thủ đoạn, chiêu bài chống phá Đảng, Nhà nước ta…cũng rất đa dạng, đó là: Gửi “kiến nghị”, “thư ngỏ” của hội, nhóm, “thư riêng”, các tài liệu của cá nhân (có danh và mạo danh) đến cơ quan, tổ chức và các đồng chí lãnh đạo cấp cao: Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng… Biên tập và phát tán các tin, bài có nội dung xấu, độc trên mạng xã hội để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của xã hội, truyền bá quan điểm chính trị sai trái và gây áp lực đối với Đảng, Nhà nước. Ra “tuyên ngôn”, “tuyên bố” (với tư cách là nhóm xã hội hoặc các cá nhân có uy tín) về một vấn đề nào đó để tạo sóng gió, gây bão dư luận. Phát tán trên mạng xã hội tin, bài, bằng các hình thức bình luận (comment), hoặc thể hiện trạng thái (status) video clip, hình ảnh ở tài khoản cá nhân trên facebook, youtube…Vì lẽ đó, hơn bao giờ hết,lúc nàybảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có hiệu quả là một nội dung cơ bản, rất hệ trọng, mang ý nghĩa sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta; là công việc thường xuyên, tự giác của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc, tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, trước hết là người đứng đầu cơ quan, đơn vị./.


(Nguồn: Hương sen Việt)

 

 

 


 

Jul 6, 2022

Không thể phủ nhận tình hình tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam

         Tre Việt - Trang facebook Việt Nam Thời Báo, ngày 05/7 đăng bài “Người Mông tại Hội nghị thượng đỉnh về tự do tôn giáo” của Quang Nguyên. Theo bài viết, Hội nghị thượng đỉnh về tự do tôn giáo thế giới tổ chức cuối tháng 6 vừa qua tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ gồm nhiều đoàn đại biểu của 31 quốc gia tham dự. Đoàn Việt Nam đông nhất với hơn 60 người, trong đó có nhóm Tin lành người Mông. Tác giả bài viết cho rằng: “Họ là những nhân chứng sống về sự đàn áp tự do tín ngưỡng qua những phương cách tàn nhẫn, vô nhân tính của cộng sản Việt Nam”. Đây là phát ngôn vu cáo trắng trợn về tình hình tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo, có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. Đến nay, trên cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng; trong đó, có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo. Riêng với lĩnh vực tôn giáo, Việt Nam có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận, cấp phép hoạt động với hơn 26,5 triệu tín đồ. Những năm qua, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, tạo điều kiện để hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của công dân theo đúng quy định của pháp luật, coi đây là một phần cuộc sống, sinh hoạt của những người theo tôn giáo. Năm 2016, Việt Nam đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo để tạo hành lang pháp lý cho các tôn giáo đăng ký, cấp phép hoạt động, tạo điều kiện để các tín đồ “sống tốt đời, đẹp đạo”.

Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập quốc tế, đã có những tôn giáo, đạo lạ, tà đạo,… có giáo lý đi ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân tộc xâm nhập vào Việt Nam. Mặc dù, chưa được cấp phép hoạt động nhưng những người đứng đầu vẫn lén lút tìm mọi cách tuyên truyền, truyền đạo và tổ chức các hoạt động trái phép nhất là tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tiềm ẩn gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Thậm chí có những phần tử lợi dụng, núp bóng tự do tôn giáo để có hành động tuyên truyền, chống phá chính quyền, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Những hành động đó đã vi phạm pháp luật Việt Nam, nên bị các cơ quan chức năng điều tra, xét xử theo quy định của pháp luật. Việc làm này là hoàn toàn bình thường, không thể gọi đó là hành động đàn áp tự do tôn giáo như bài viết đã nêu.

Trong bài viết còn cho rằng: “khi đạo Tin Lành được truyền đến miền núi phía Bắc Việt Nam, đã giúp người Mông hiểu được chỉ có Đức Chúa Trời cứu rỗi được linh hồn họ. Rất đông người nghe theo Tin Lành của Chúa. Người Mông thay đổi nếp sống hủ lậu. Cuộc sống, văn hóa lạc hậu dần thay đổi, các tệ nạn xã hội dần mất hẳn theo lời dạy của Đức Chúa trời “Vàng Chứ””. Đây là sự ngộ nhận, ấu trĩ đến nực cười về nhận thức của Quang Nguyên. Bởi, đúng là cuộc sống, văn hóa của đồng bào Mông đã, đang dần thay đổi. Nhưng để có được điều đó là nhờ có đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Và có một sự thật, một thực tế không thể phủ nhận là có hàng trăm nghìn cán bộ, chiến sĩ các đơn vị Quân đội, Bộ đội Biên phòng, các đơn vị kinh tế quốc phòng,… đang từng ngày, từng giờ ba cùng, bốn cùng, gắn bó mật thiết với đồng bào để tuyên tuyền, vận động đồng bào thay đổi nếp nghĩ, xóa bỏ hủ tục lạc hậu, hướng dẫn cách sản xuất, phát triển kinh tế gia đình, thay đổi cuộc sống. Hoàn toàn không thể có chuyện Đức Chúa Trời đã cứu rỗi, làm thay đổi cuộc sống của đồng bào.

Còn với nhóm Tin Lành người Mông dự Hội nghị không hề đại diện cho tiếng nói, nguyện vọng của cộng đồng đồng bào Mông ở Việt Nam. Mà thực chất đây là những phần tử bất mãn với chế độ, với chính quyền. Họ đã lợi dụng, núp bóng chiêu trò “đấu tranh cho tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng” để vu cáo, phản ánh không đúng tình hình tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam, dưới sự giật dây của các thế lực thù địch mà thôi./.

Jul 5, 2022

Kết cục của kẻ “lộng ngôn” Nguyễn Lân Thắng

          Tre Việt - Ngày 05/7, Cơ quan An ninh điều tra Công an Thành phố Hà Nội đã thực hiện lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Lân Thắng (Sinh năm 1975, hiện trú tại 32/221, ngõ Thịnh Quang, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội).

Bị can Nguyễn Lân Thắng

Bị can Nguyễn Lân Thắng bị bắt về tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định tại Điều 117, Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Nguyễn Lân Thắng sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng và hiếu học.Các thành viên trong dòng họ Nguyễn Lân đã và đang hết lòng cống hiến thật sự cho đất nước, góp phần xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nguyễn Lân Thắng được gia đình cho ăn học tử tế và có tấm bằng kỹ sư kiến trúc; thế nhưng Thắng đã không tiếp bước truyền thống gia đình theo con đường học tập, nghiên cứu khoa học, phục vụ đất nước, mà tự chọn cho mình con đường cá biệt là chống phá đất nước, với cái mác “đấu tranh dân chủ”. Mặc dù, Nguyễn Lân Thắng đã nhiều lần được gia đình và chính quyền các cấp nhắc nhở, giáo dục, thuyết phục, uốn lắn, thậm chí là cảnh cáo, ren đe, song y không biết hối cải, mà tiếp tục lún sâu vào con đường tội lỗi là: chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc xây dựng đất nước.

Các quyết định và lệnh bắt Nguyễn Lân Thắng đã được Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phê chuẩn là một lẽ đương nhiên. Hiện vụ án đang được điều tra làm rõ. Đây cũng là cái kết xứng đáng và là bài học cảnh tỉnh đối với những kẻ lợi dụng “tự do”, “dân chủ”, ngông nguồng, chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc xây dựng đất nước. Chắc chắn rằng, với sự “Thượng tôn pháp luật”, sẽ có một bản án thích đáng cho nhà “đấu tranh dân chủ” Nguyễn Lân Thắng./.

 

Trăm sự phi lý phía sau “bộ cánh tự do tôn giáo”

     Một trong những nguyên nhân khiến các thế lực thù địch và đối tượng xấu thường xuyên bịa đặt, vu cáo về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là nhằm bẻ lái luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam theo các tiêu chuẩn phương Tây. 

Những đòi hỏi vô lý, quá trớn

Những năm qua, do cách nhìn thiên lệch, thiếu thiện chí nên một số cá nhân, tổ chức hoạt động dưới danh nghĩa “người bảo vệ” tự do tôn giáo và nhân quyền thế giới vẫn tung ra những thông tin thiếu khách quan, những nhận định sai trái về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Điển hình là gần đây, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) công bố báo cáo về tình hình tự do tôn giáo quốc tế năm 2021, trong đó nêu tình hình và kết quả thực hiện tôn giáo của 27 nước và một số thực thể, tổ chức trên thế giới mà USCIRF đánh giá là có những vi phạm “nghiêm trọng” hoặc “đặc biệt nghiêm trọng” để đề xuất Bộ Ngoại giao Mỹ đưa vào “danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt” hoặc “danh sách cần theo dõi đặc biệt” về tự do tôn giáo, từ đó nhằm áp đặt chế tài với các quốc gia này trong hỗ trợ tài chính và hợp tác trên một số lĩnh vực.

Trong nội dung báo cáo về Việt Nam, USCIRF đưa ra nhận xét với giọng điệu đầy kẻ cả rằng điều kiện tự do tôn giáo của Việt Nam trong năm 2021 không có gì khác biệt so với năm 2020. Và, thông qua việc đả kích tình hình bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, USCIRF thậm chí còn đòi sửa đổi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam.

Phải khẳng định rằng, không chỉ riêng báo cáo năm 2021 mà các báo cáo thường niên của USCIRF đưa ra trong những năm gần đây đều được đánh giá là chưa chính xác, thiếu thiện chí, thiếu khách quan về tình hình tự do tôn giáo ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Thậm chí, ngay cả trong chính giới Mỹ và các tổ chức nhân quyền ở Mỹ cũng xuất hiện những ý kiến cho rằng, cách tiếp cận của USCIRF nặng về chỉ trích, không giúp cải thiện tự do tôn giáo trên toàn cầu đúng với mục đích mà Quốc hội và Chính phủ Mỹ đặt ra.

Trên thực tế, Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng tôn giáo, trong đó có cả tôn giáo nội sinh và tôn giáo ngoại nhập và từng được ví như một “bảo tàng” về tín ngưỡng, tôn giáo của thế giới. Theo thống kê cập nhật từ Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng và hơn 26,5 triệu tín đồ, chức sắc của các tôn giáo. Tính đến hết năm 2021 đã có 16 tôn giáo được Nhà nước Việt Nam công nhận, trong đó có Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa hảo…

Chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là bảo đảm và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân, bảo đảm công bằng, không phân biệt đối xử với các tôn giáo. Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc gia trên thế giới có đạo luật về tôn giáo, cụ thể là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội thông qua ngày 18/11/2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam quy định rất rõ các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Đồng thời, Nhà nước Việt Nam tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước và cộng đồng, đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Nhà nước cũng bảo hộ các cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo và tài sản hợp pháp của các cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo, ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo, xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường, xâm phạm đời sống xã hội cũng như thân thể, tính mạng, sức khỏe của nhân dân,… Và việc xử lý đối với các hoạt động vi phạm pháp luật liên quan đến tôn giáo cũng dựa trên những quy định này.

Quyền tự do tôn giáo là vấn đề có tính lịch sử, nghĩa là phụ thuộc vào từng thời điểm lịch sử cụ thể ở từng quốc gia, gắn với từng thể chế chính trị-xã hội và điều kiện kinh tế-văn hóa-xã hội cụ thể nhất định. Nói cách khác, không thể tồn tại một khái niệm về quyền tự do tôn giáo chung chung, trừu tượng mà không gắn với một bối cảnh và thực thể nhất định.

Vì lẽ đó, không thể đem giá trị, quan niệm về tự do tôn giáo ở một quốc gia này để áp dụng hay đo lường, đánh giá mức độ quyền tự do tôn giáo ở một quốc gia khác. Đặc biệt, trên phương diện quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia, thể chế chính trị bình đẳng, độc lập thì càng không thể đem tiêu chuẩn về tự do tôn giáo ở quốc gia này để áp đặt lên một quốc gia khác và buộc quốc gia đó phải tuân theo. Đây cũng là những điều mà USCIRF hay bất cứ cá nhân, tổ chức nào đang muốn đưa ra những đòi hỏi quá trớn đối với việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cần phải học thuộc!

Cần xem lại cách nhìn, quan niệm về tự do tôn giáo

Những năm gần đây, sự sôi động trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam được thể hiện ở việc liên tục gia tăng số lượng các cơ sở thờ tự trong tôn giáo và tín đồ. Bất chấp điều đó, các thế lực thù địch vẫn vu cáo Việt Nam ngăn cản tự do tôn giáo, không công nhận các tổ chức tôn giáo. Theo số liệu từ Ban Tôn giáo Chính phủ, nếu như năm 1985, số lượng tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam vào khoảng 14 triệu, thì đến năm 2021 đã tăng lên hơn 26,5 triệu. Thành tựu trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam còn được thể hiện qua sự gia tăng số lượng các trường đào tạo chức sắc. Tính đến tháng 4/2022, các tôn giáo ở Việt Nam có 66 cơ sở đào tạo chức sắc với 10.000 học viên đang theo học, riêng Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 47 cơ sở đào tạo, trong đó có 04 học viện Phật giáo. Các cơ sở thờ tự cũng được quan tâm sửa chữa, xây mới. Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước có 29.800 cơ sở thờ tự của các tôn giáo, tăng thêm 5.800 cơ sở so với năm 2008.

Hiện ở Việt Nam cũng có nhiều hệ thống tổ chức giáo hội có tầm hoạt động quốc tế, đặc biệt là Công giáo, Phật giáo và một số tổ chức tôn giáo có nguồn gốc nước ngoài du nhập vào Việt Nam, thể hiện thông qua việc mở rộng quan hệ với các tổ chức tôn giáo các nước và tiến hành các hoạt động thiện nguyện ở nước ngoài. Chẳng hạn như giữa tháng 6 vừa qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức lễ trao tặng tài trợ, giúp đỡ nhân dân Sri Lanka vượt qua khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị tại đất nước này.

Không chỉ phát triển mạnh mẽ về số lượng, các tổ chức tôn giáo, tín đồ, chức sắc ở Việt Nam đã chứng tỏ tầm ảnh hưởng tích cực đối với đời sống, sẵn sàng đóng góp cho cộng đồng thông qua các hoạt động thiện nguyện và đồng hành với các hoạt động của đất nước, mà những gì diễn ra trong giai đoạn đại dịch Covid-19 phức tạp là một ví dụ điển hình.

Những con số và ví dụ nói trên một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác khẳng định Việt Nam không phân biệt giữa người có tín ngưỡng, tôn giáo hay không; không phân biệt hay kỳ thị bất kỳ tôn giáo nào dù nội sinh hay được truyền từ nước ngoài, dù là tôn giáo đã ổn định lâu dài hay mới được công nhận.

Thực tế cũng cho thấy, các tín đồ tôn giáo ở Việt Nam ngày càng đông và họ được tự do hành lễ dù ở nhà riêng hay nơi thờ tự. Mỗi người Việt Nam cũng thường có tín ngưỡng riêng, chẳng hạn như thờ cúng tổ tiên, ngày rằm mùng một thắp hương… nhưng vẫn có thể theo tôn giáo. Ngoài ra, nhiều lễ hội tôn giáo diễn ra hằng năm không còn là chuyện riêng của từng tôn giáo mà đã có sức lan tỏa lớn trong cộng đồng xã hội, qua đó làm giàu thêm đời sống tinh thần của nhân dân. 

Qua đó để thấy rằng, việc một số cá nhân, tổ chức nước ngoài thường xuyên bóp méo hoặc có cái nhìn sai lệch về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam có thể do mưu đồ rắp tâm chống phá Việt Nam thông qua vấn đề dân chủ, tôn giáo và nhân quyền, hoặc cũng có thể do sự khác biệt trong cách nhìn và quan niệm của họ về vấn đề này. 

Can thiệp sâu vào tình hình tự do nhân quyền cũng như tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các quốc gia khác và cố bắt các quốc gia ấy phải mặc “bộ cánh tự do tôn giáo” mang màu sắc phương Tây là điều không thể chấp nhận được. Bộ cánh ấy qua mô tả thì rất mỹ miều và hợp thời, nhưng liệu đã có ai thừa nhận sự chuẩn mực của nó?

          (Nguồn: Hương Sen Việt)

Jul 1, 2022

Không thể xuyên tạc chủ trương, chính sách hợp lòng dân

  

Đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh công tác cán bộ là “khâu then chốt của mọi then chốt”, “nguyên nhân của mọi nguyên nhân”, là cơ sở để đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chống chủ nghĩa cá nhân. Vì thế, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu toàn Đảng phải chuyển biến mạnh mẽ từ “học tập” sang “làm theo” Bác, gắn với nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.

Mới đây, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Đây là cơ sở lý luận – thực tiễn rất quan trọng để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và bác bỏ mọi quan điểm sai trái, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng, khi cho rằng Đảng ta “không đủ năng lực xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”, “Đảng không đủ phẩm chất lãnh đạo đất nước”, v.v..

Những điểm mới nổi bật và quyết tâm chính trị của Đảng ta trong Kết luận số 21-KL/TW

So với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Kết luận số 21-KL/TW của Đảng thể hiện rõ thái độ, quan điểm, lập trường và quyết tâm chính trị của Đảng ta về tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng với một số điểm mới cần nắm vững:

(1). Mở rộng phạm vi, không chỉ trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn bao gồm cả trong xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

(2). Thể hiện rõ quan điểm, lập trường và quyết tâm chính trị nhất quán, quyết liệt hơn, cùng với ngăn chặn, đẩy lùi còn phải chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực, chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân

(3). Mục tiêu được xác định cao hơn và sát hợp hơn với tình hình mới. Trong đó nhấn mạnh: Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; chống là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Điểm mới nổi bật trong mục tiêu trên là nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội.

(4). Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu là toàn diện, đồng bộ và sắc bén hơn. Nếu Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đề ra 04 nhóm nhiệm vụ, giải pháp thì lần này, Kết luận Trung ương 4 (khóa XIII) đề ra 05 nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn:

Một là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình.

Hai là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đây là giải pháp mới, rất hợp lòng dân.

Ba là, tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách, trước hết là: (1). Rà soát, thể chế hoá, kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế hiện có, bảo đảm đồng bộ, thống nhất giữa quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. (2). Kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền; xây dựng cơ chế chú trọng phát hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài. (3). Nghiên cứu, ban hành các cơ chế về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; có cơ chế bảo vệ, khuyến khích nhân dân tố giác cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực. (4). Chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật: đầy đủ, đồng bộ, công khai, minh bạch; không để xảy ra tình trạng lồng ghép “lợi ích nhóm. (5). Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực như quản lý tài chính, ngân sách, đất đai, cơ sở vật chật,…

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm. So với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) đã bổ sung nội dung “kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm”. Đây là một trong những điểm mới nổi bật.

Năm là, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó: (1). Tiếp tục hoàn thiện cơ chế nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. (2). Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải tăng cường trách nhiệm giải trình, thực hiện nghiêm quy định của Đảng, Nhà nước về tiếp công dân, đối thoại với công dân.

Những điểm mới nổi bật trong Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm: sự hội tụ “ý Đảng – lòng Dân”

Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm (gọi tắt là Quy định số 37-QĐ/TW) giữ nguyên 19 điều như trước đây nhưng đưa nội dung của 2 điều vào những điều khác và thêm 02 điều mới; kế thừa cơ bản những nội dung còn phù hợp, bổ sung một số nội dung mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng phù hợp với tình hình mới. Cụ thể như sau:

Một là, đưa nội dung của 02 điều vào các điều khác, đó là: (1). Đưa nội dung của Điều 7 trong Quy định số 47: “Đảng viên tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội (theo quy định phải do tổ chức đảng giới thiệu) khi chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép” vào Điều 2, Quy định số 37; (2). Đưa nội dung Điều 10, Quy định số 47: “Can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học, đi nước ngoài trái quy định. Lợi dụng chức vụ được giao để chiếm dụng, vay, mượn tiền, tài sản của đối tượng trực tiếp quản lý trái quy định. Ép buộc, mua chuộc cá nhân hoặc tổ chức để bao che, giảm tội cho người khác” vào nội dung Điều 12 và Điều 13, Quy định số 37.

Hai là, bổ sung 02 điều mới, cụ thể là: (1). Bổ sung Điều 3, Quy định số 37: quy định về những hành vi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đó là “Phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không thực hiện trách nhiệm nêu gương; chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi; “tư duy nhiệm kỳ”, đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa rời quần chúng”. (2). Bổ sung Điều 13, Quy định số 37: đảng viên không được “Can thiệp, tác động vào hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, xét đặc xá, giải quyết khiếu nại, tố cáo để bao che, tiếp tay cho các hành vi vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tác động, ép buộc, mua chuộc tổ chức, cá nhân để giảm trách nhiệm, hình phạt cho người khác”.

Ba là, Quy định số 37-QĐ/TW đã bổ sung vào một số điều so với Quy định số 47-QĐ/TW với nội dung “cấm đảng viên” như sau: (1). Điều 6: Bổ sung nội dung cấm đảng viên “Đe dọa, trù dập, trả thù người khiếu nại, tố cáo; không thực hiện các quy định của Đảng và pháp luật về bảo vệ người tố cáo, phê bình, góp ý”; (2). Điều 9: Bổ sung nội dung cấm đảng viên “Sử dụng văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận giả, không hợp pháp; nhập quốc tịch, chuyển tiền, tài sản ra nước ngoài, mở tài khoản và mua bán tài sản ở nước ngoài trái quy định”; (3). Điều 11: Bổ sung nội dung cấm đảng viên “Lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước”; (4). Điều 12: Bổ sung nội dung cấm đảng viên “Có hành vi chạy chức, chạy quyền”; (5). Điều 14: Bổ sung nội dung cấm đảng viên “Tham ô”; (6). Điều 18: Bổ sung nội dung cấm đảng viên “Thờ ơ, vô cảm với các hành vi sai trái trong xã hội”.

Bốn là, thay đổi thứ tự một số điều không được làm, như Điều số 2 trong Quy định số 47 là đảng viên không được “Cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước…” trong Quy định số 37-QĐ/TW được xếp ở Điều 4.

Năm là, chính xác hóa thể thức văn bản và diễn đạt một số điều cho chặt chẽ hơn và biên tập, diễn đạt một số điều cho dễ hiểu, dễ nhớ hơn.

Rõ ràng, hai văn bản nêu trên là minh chứng sinh động, đầy thuyết phục để bác bỏ mọi chiêu trò xuyên tạc, nói xấu, hạ thấp uy tín, vị thế và tầm ảnh hưởng to lớn, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo mà những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta đang ra sức tuyên truyền trên mạng xã hội.

Điều đó chứng tỏ rằng, ở Việt Nam mọi sự bịa đặt, tung tin sai trái không thể lừa bịp được nhân dân. Bởi, nhân dân luôn bênh vực, bảo vệ và đứng về lẽ phải, tin tưởng và hết lòng ủng hộ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vì nó hợp lòng dân.

Đúng là, sự thật không thể xuyên tạc; chân lý khoa học không thể “bẻ cong”. Sự chống phá, xuyên tạc của những người có tâm địa xấu không thể ngăn bước, cản đường đi tới, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân ta./.

(Nguồn: Hương Sen Việt)