Jun 20, 2020

Những con số biết nói đã bác bỏ mọi xuyên tạc về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam



Tre Việt - Như chúng ta đã biết, thực hiện âm mưu chống phá sự nghiệp cách mạng ở nước ta, trong những năm qua, một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam; đặc biệt là tổ chức Freedom House (Ngôi nhà tự do) thường xuyên xếp Việt Nam vào nhóm những nước không có tự do. Họ liên tục đưa ra những luận điệu cho rằng, Việt Nam là quốc gia Đảng Cộng sản “thống trị” trong nhiều thập kỷ, các quyền dân chủ, như: tự do biểu đạt, tự do tôn giáo, và hoạt động xã hội dân sự luôn bị hạn chế nghiêm ngặt. Tháng 11 năm ngoái, tổ chức Freedom House còn xếp Việt Nam vào danh sách những quốc gia không có tự do internet.
Ngày 09/6/2020, Ủy Hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế (USCIRF) vừa công bố bản báo cáo đặc biệt về tù nhân lương tâm tôn giáo ở Việt Nam. Báo cáo của USCIRF cho biết, trong số hơn 250 tù nhân lương tâm tại Việt Nam, ước tính có một phần ba bị bỏ tù vì có liên quan đến hoạt động cho tự do tôn giáo hay niềm tin tôn giáo.
Đó là cách nói sai lệch. Bởi, “không có tự do tôn giáo” mà ở Việt Nam lại có tới 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân; 60 cơ sở đào tạo tôn giáo thuộc Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hòa Hảo. Đến năm 2018, 7.102 tổ chức, cơ sở tôn giáo đang sử dụng tổng diện tích 14.850 ha đất; 12 báo, tạp chí liên quan tôn giáo, phần lớn các tổ chức tôn giáo đều có website riêng; trong 5 năm có hơn 3.000 đầu ấn phẩm tôn giáo được xuất bản với hơn 10 triệu bản in, hàng triệu đĩa CD, DVD bằng nhiều ngôn ngữ. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức ở Việt Nam, như: Đại lễ Phật đản VESAK, 500 năm Cải chánh đạo Tin lành, v.v. Điều đáng nói là, tự do tôn giáo của các dân tộc thiểu số luôn được bảo đảm: năm 2017, Giáo hội Phật giáo Việt Nam xây dựng Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại Cần Thơ; ở Bình Phước và Tây Nguyên. Có 33 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành đang sinh hoạt tại 304 chi hội và hơn 1.300 điểm nhóm; ở Tây Bắc có 693 điểm nhóm Tin lành, 8 Hội thánh cơ sở được thành lập; nhiều điểm nhóm của người dân tộc thiểu số theo Hội thánh Lutheran, Hội Liên hữu Baptist Việt Nam đã đăng ký sinh hoạt tập trung, v.v. Cùng với phát triển về tổ chức, đăng ký hoạt động cho các tôn giáo đủ điều kiện, số lượng tín đồ và các hoạt động tôn giáo cũng không ngừng gia tăng. Tính đến tháng 9/2019, Việt Nam có 25,1 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số, 55.710 chức sắc, 145.721 chức việc. Việc ra đời các tổ chức tôn giáo một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác, khẳng định Việt Nam không phân biệt giữa người có tín ngưỡng, tôn giáo hay không; không phân biệt hay kỳ thị bất kỳ tôn giáo nào dù nội sinh hay được truyền từ nước ngoài, dù là tôn giáo đã ổn định lâu dài hay mới được công nhận.
Mới đây, một khảo sát toàn cầu của Nhóm nghiên cứu Dalia Research, có trụ sở chính ở Berlin (Liên bang Đức) kết hợp với quỹ Liên minh Dân chủ (AoD) có trụ sở ở Copenhagen (Đan Mạch) cho thấy, chính phủ Việt Nam đã đáp ứng được sự kỳ vọng của hầu hết người dân về tự do dân chủ khi có tới hơn 70% người dân trong nước tin là mình đang sống ở một quốc gia dân chủ.
Theo đó, chỉ số Nhận thức Dân chủ (DPI), nghiên cứu hàng năm lớn nhất về dân chủ, vừa được đưa ra cho thấy, đại đa số người dân Việt Nam (81%) coi dân chủ là quan trọng và 71% những người được khảo sát ở Việt Nam nói rằng “đất nước của tôi có dân chủ”. Trong khi đó, chỉ có 18% người dân Việt Nam được hỏi nói rằng “không có đủ dân chủ ở đất nước tôi” và chỉ có 12% cho rằng chính phủ của họ “thường hành động vì lợi ích của một nhóm nhỏ”.
Đặc biệt, từ cuối năm 2019, khi dịch COVID-19 xuất hiện ở Trung Quốc, đến nay, đã trở thành đại dịch toàn cầu, với số người nhiễm trên toàn thế giới lên tới gần 9.000.000 ca và gần 500.000 người tử vong, thế nhưng Việt Nam là một trong những quốc gia đứng đầu trên bảng chỉ số DPI, với 95% người dân cho rằng chính phủ của họ làm tốt trong việc đối phó với đại dịch COVID-19. Đây rõ ràng là những con số thực tế, những con số phản ánh từ chính sự cảm nhận của người dân Việt Nam. Điều này, hoàn toàn trái ngược với những luận điệu của những cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí cho rằng, Việt Nam là quốc gia “không có tự do”, “mất dân chủ”. Những con số biết nói trên đã chứng minh điều ngược lại, đa số người dân Việt Nam cảm nhận sự hài lòng với chính phủ và họ cho rằng “đất nước của tôi có dân chủ”.
Tre Việt nghĩ rằng, chẳng biết khi chứng kiến những con số cụ thể này, một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí, nhất là Freedom House có còn mở miệng ra xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam nữa hay không?


Việc làm kịp thời, đúng quy định của cơ quan thực thi pháp luật Việt Nam


          Tre Việt - Vừa qua, nhân việc Phạm Thành và Nguyễn Tường Thụy bị cơ quan chức năng bảo vệ pháp luật Việt Nam bắt tạm giam, điều tra (sáng ngày 23/5/2020), trên BBC, RFA, VOA và một số trang mạng phản động cho rằng, Nhà nước Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận báo chí (!).
          Cần khẳng định rằng, việc làm này của cơ quan chức năng bảo vệ pháp luật Việt Nam là phù hợp quy định pháp luật, nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận báo chí và sự trong sáng, lành mạnh của không gian mạng.
          Ai cũng hiểu, quyền tự do ngôn luận báo chí là một nội dung của quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, quyền đó phải được sử dụng phù hợp với quy định pháp luật. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (năm 1966) của Liên hợp quốc (Việt Nam đã gia nhập năm 1982) quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận”. Theo đó, quyền này có 03 nội dung cơ bản: 1- Quyền tự do “tìm kiếm” thông tin; 2- Quyền “tiếp nhận” (đọc và nhận thức, thể hiện quan điểm của cá nhân) thông tin; 3- Quyền “truyền đạt” mọi thông tin (Khoản 2, Điều 19). Việc thực hiện các quyền này “không phân biệt lĩnh vực, hình thức bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật,…”. Đặc biệt, Công ước này chỉ rõ: “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định”. Những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật để:  “a- Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác. b- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội” (Khoản 3, Điều 19).
          Ở Việt Nam cũng vậy, quyền tự do ngôn luận báo chí được quy định rõ trong Chương II, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2013, quy định về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; trong đó, Điều 25, nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình” và: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Theo đó, Nhà nước Việt Nam đã ban hành Luật và văn bản luật để đảm bảo quyền tự do ngôn luận cho mọi tổ chức, cá nhân. Nổi bật là: Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 20015 (đã được sửa đổi một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2017),chỉ rõ những điều khoản nghiêm cấm mọi cá nhân, tổ chức vi phạm, ai vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật. Theo Điều 117, của Bộ luật Hình sự này, quy định nghiêm cấm hành vi “làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước”. Luật Báo chí năm 2016, quy định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình”; đồng thời, quy định: “Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân”. Điều 16, Luật An ninh mạng nghiêm cấm các cá nhân, tổ chức các hành vi: a. Xúc phạm nghiêm trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; b. Thông tin bịa đặt, sai sự thật xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, v.v. Như vậy, Nhà nước Việt Nam đã có những quy định pháp luật rất cụ thể để mọi tổ chức, cá nhân thực hành quyền tự do ngôn luận báo chí.
          Ấy thế mà, trong quá trình hoạt động, Phạm Thành (Bà Đầm Xòe) và Nguyễn Tường Thụy đã tham gia, cấu kết với một số tổ chức phi pháp, cá nhân phản động trong và ngoài nước, núp bóng tự do ngôn luận báo chí để viết bài xuyên tạc, bôi nhọ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước, cá nhân những đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tung lên không gian mạng. Hành động của chúng đã vi phạm pháp luật, làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Hành vị đó cần phải trừng trị đích đáng theo quy định pháp luật để bảo vệ quyền tự do báo chí.      
          Như vậy, việc Phạm Thành và Nguyễn Tường Thụy bị bắt và xử lý là đúng người, đúng tội, phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Đây là hành động “đúng và trúng” của cơ quan bảo vệ pháp luật Việt Nam, nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận báo chí, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.