Feb 6, 2014

Sự hàm hồ của các "nhà nhân quyền"

Tre Việt - Ngày 05-02-2014, ngay trước khi Việt Nam đăng đàn tại phiên họp kiểm định định kỳ thứ 18 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, một số tổ chức, cá nhân tự nhận là “nhà nhân quyền” có các hoạt động hòng gây sức ép về nhân quyền đối với Việt Nam. Xem xét các hoạt động của họ cho thấy đó là những phát biểu hàm hồ. BBC tiếng Việt với bài “Vận động giờ chót trước UPR Việt Nam” của Nguyễn Hùng cho thấy rõ điều đó. Bài viết cho biết, các “nhà nhân quyền” tổ chức hội thảo mang tên “Trách nhiệm của Việt Nam trong vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc” hôm 04-02 vừa qua, tại Giơ-ne-vơ do PEN International, UN Watch và Đảng chính trị Việt Tân, đồng chủ trì. Hội thảo có hơn 100 người diễn ra trong 2 tiếng đồng hồ cho thấy đó là trò hề. Hai tiếng đồng hồ với từng ấy người thì hội thảo được những gì không cần trả lời mọi người cũng biết nó như thế nào rồi.
          Ông Leon Saltiel, Phó Giám đốc tổ chức UN Watch kêu gọi các nước thành viên Liên hợp quốc hãy “khai trừ Việt Nam ra khỏi Hội đồng Nhân quyền”. Không hiểu căn cứ vào đâu mà ông phát biểu hàm hồ đến vậy! Ai cũng biết, Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền với số phiếu cao, thế mà ông Leon Saltiel lại bác bỏ lá phiếu của gần 200 thành viên Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam vào Hội đồng nhân quyền. Vậy, chẳng phải hàm hồ sao? Trơ chẽn hơn, khi phóng viên BBC chất vấn về chuyện Việt Nam đã được bầu vào Hội đồng Nhân quyền với số phiếu cao, ông Saltiel lại nói: “chuyện các nước thành viên Liên hợp quốc dàn xếp và mặc cả với nhau để đổi chác sự ủng hộ là chuyện thường”. Tôi không hiểu gần 200 nước thành viên Liên hợp quốc “đổi chác” cái gì với Việt Nam? Có chăng, đó là nhân quyền không chỉ cho nhân dân Việt Nam, mà với tư cách thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Việt Nam tích cực đóng góp vì nhân quyền cho cả nhân loại ngày càng được bảo đảm tốt hơn mà thôi.
          Đại diện của UN Watch, nói thêm Libya cũng đã từng là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và đã bị khai trừ khỏi Hội đồng này. Nhưng họ lại “quên” tháng 5-2001, Liên hợp quốc bỏ phiếu loại Mỹ ra khỏi Ủy ban Nhân quyền quốc tế - tổ chức tương tự Hội đồng Nhân quyền ngày nay - nơi mà Mỹ là thành viên từ năm 1948, do những vi phạm của nước này xung quanh vấn đề dân chủ, nhân quyền.
          Ông Hà Huy Sơn, luật sư từ Việt Nam sang Giơ-ne-vơ tham gia các hoạt động trước phiên Kiểm định Định kỳ Phổ quát UPR cũng thừa nhận với BBC rằng, số vụ xử các tội liên quan đến Điều 88 và 79 của Bộ luật Hình sự về tội tuyên truyền chống Nhà nước và tội lật đổ chính quyền giảm xuống, nhưng lại hồ đồ cho rằng, “các nhà hoạt động giờ thường bị khép vào những tội khác”. À thế ra, kiểu gì các “nhà nhân quyền” cũng nói được. Thực chất giọng điệu của các “nhà nhân quyền” là họ phải đứng ngoài vòng pháp luật. Nhân quyền với họ là xã hội ai muốn làm gì thì làm, không có pháp luật gì hết, họ tuyệt đối hóa quyền con người mà lảnh tránh trách nhiệm công dân. Đó là điều phi lý và không thể. Hiện nay, trên hành tinh này, không có nơi nào có thứ nhân quyền như họ đòi hỏi. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị mà họ thường viện dẫn cũng cho thấy rõ điều đó. Điều 19, Công ước này quy định: “1: Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không ai được can thiệp; 2: Mọi người có quyền tự do ngôn luận,…”, nhưng khoản 3 lại quy định: “Việc thực hiện những quy định tại mục 2 của điều này (Điều 19) kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể phải chịu một số hạn chế nhất định,… để: Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”.
          Trong “Tuyên bố Viên và Chương trình hành động”, cộng đồng quốc tế cũng khẳng định: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt,… Trong khi phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc và khu vực về lịch sử, văn hóa và tôn giáo,…[1]. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như của nhiều quốc gia khác, quyền con người luôn được gắn liền với quyền và nghĩa vụ công dân. Thật vậy, Công ước nhân quyền châu Âu có hiệu lực từ ngày 03-9-1953 đã đưa ra các quy định về các quyền cơ bản của con người; trong đó, có quyền tự do ngôn luận được ghi ở Ðiều 10. Theo đó: “1. Tất cả mọi người đều có quyền tự do bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm việc được tự do bày tỏ ý kiến và tự do trao đổi các thông tin mà không cần phải nhận được bất kỳ việc cho phép nào từ phía cơ quan công quyền và không phân biệt biên giới. 2. Việc thực hiện các quyền nói trên, bao gồm cả các nghĩa vụ và trách nhiệm, hình thức, điều kiện, các hạn chế hoặc các biện pháp trừng phạt cần phải được ghi rõ trong các văn bản pháp luật có cân nhắc đến việc cần thiết đối với một xã hội dân chủ, vì lợi ích đối với an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì trật tự công cộng và ngăn ngừa tội phạm, bảo vệ sức khỏe và đạo đức, nhân phẩm hoặc danh dự của con người, ngăn ngừa việc phát tán các thông tin mật hoặc để bảo đảm quyền lực và tính độc lập của các cơ quan tư pháp[2]. Qua đó cho thấy, khoản 1 của Ðiều luật này quy định nguyên tắc chung về tự do ngôn luận (ai cũng có quyền được bày tỏ, trao đổi quan điểm của mình mà không phân biệt địa vị xã hội, giới tính, biên giới), nhưng khoản 2 lại quy định việc thực thi các quyền đó và các hạn chế được cụ thể hóa trong pháp luật của mỗi quốc gia. Vì mỗi quốc gia đều cân nhắc tình hình thực tế của mình để đưa ra các đạo luật nhằm cụ thể hóa việc thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân. Thực tiễn đã cho thấy, quyền tự do của người này nếu không có những hạn chế nhất định thì có thể xâm hại đến quyền, lợi ích của người khác về nhân phẩm, danh dự. Bởi vậy, Liên minh châu Âu (gồm 28 quốc gia) cho phép các nước thành viên cân nhắc lợi ích của mỗi quốc gia để đưa ra các quy định cụ thể, nhằm hướng dẫn công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận. Ðó là quyền tự do ngôn luận phải nằm trong nguyên tắc bảo đảm “an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì trật tự công cộng và ngăn ngừa tội phạm, bảo vệ sức khỏe và đạo đức, nhân phẩm hoặc danh dự của con người, ngăn ngừa việc phát tán các thông tin mật, bảo đảm quyền lực và tính độc lập của các cơ quan tư pháp”[3]. Chúng ta còn nhớ sự kiện họa sĩ Kút vẽ tranh châm biếm nhà Tiên tri Mohammed của Hồi giáo dẫn đến khủng hoảng xã hội vì bạo động ở Đan Mạch và vụ việc Mục sư Giôn ở bang Phlo-ri-đa, nước Mỹ có ý định đốt kinh Cô-ran đã để lại hậu quả nặng nề đối với xã hội khi người ta đã quan niệm không đúng quyền tự do của cá nhân. Những người có hành vi xúc phạm đạo Hồi ở Đan Mạch và ở Mỹ nói rằng, họ có cơ sở pháp lý để làm việc đó là “quyền tự do của cá nhân được pháp luật bảo vệ”. Chúng ta cũng chưa quên việc Hoa Kỳ và nhiều quốc gia phương Tây đòi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông chủ mạng WikiLeaks cũng chỉ cho rằng với những thông tin của mạng này “có thể” gây nguy hiểm cho Quân đội Hoa Kỳ. Và gần đây là vụ Edward Snowden tiết lộ bí mật hoạt động của cơ quan tình báo Mỹ, dẫn đến cựu nhân viên tình báo này phải tỵ nạn ở Nga trước sự truy bắt gắt gao của Chính phủ Mỹ, cũng chỉ vì tội tiết lộ bí mật quốc gia. Tại sao lại có tình trạng đó? Vì những người này đã tuyệt đối hóa quyền con người mà không thấy nghĩa vụ, trách nhiệm công dân. Điều đó cho thấy, trong khi thực hiện quyền của mình, mỗi người là công dân nước nào cũng có bổn phận phải thực hiện nghĩa vụ công dân và luật pháp của nước đó. Công dân Việt Nam cũng không phải ngoại lệ.
          Đại diện của Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, ông Benjamin Ismail, cũng phát biểu rằng, tình hình nhân quyền Việt Nam đã tồi tệ thêm từ năm 2009 - năm Việt Nam lần đầu tiên kiểm điểm về nhân quyền. Xin thưa, Việt Nam được Liên hợp quốc xếp thứ 13 thế giới về kết quả thực hiện Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Đấy vi phạm nhân quyền của Việt Nam là thế đấy!
          Rõ ràng, các “nhà nhân quyền” có những phát biểu hàm hồ, không dựa trên pháp luật, mà chỉ tuyệt đối quyền con người, lảng tránh trách nhiệm công dân. Xin nhắc lại, đó là điều phi lý và không thể.





[1] - Viện nghiên cứu quyền con người - Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, H. 2002,  tr 44.
[2] , 3 - Báo Nhân Dân, ngày 17-9-2013.