Dec 30, 2022

Giai cấp tư sản không còn bóc lột công nhân mà “bóc lột máy móc” - quan điểm hoàn toàn phi lý

 Tre Việt - Ngày nay, với sự phát triển nhanh, mạnh của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, máy móc và các thiết bị robot đã dần thay thế con người trong lao động sản xuất; nhiều nhà máy, xí nghiệp máy móc còn giữ vai trò quan trọng, khiến cho lực lượng lao động thuyên giảm. Lợi dụng vấn đề này, thời gian qua, có quan điểm cho rằng, giai cấp tư sản không còn bóc lột công nhân mà “bóc lột máy móc”. Có thể nhận thấy, đây là cách đánh tráo khái niệm, làm cho mọi người lầm tưởng là giai cấp tư sản là tiến bộ, không còn bóc lột công sức của người lao động, từ đó phê phán chế độ xã hội chủ nghĩa. Tre Việt cho rằng, quan điểm hoàn toàn phi lý, bởi:

Thứ nhất, hiện nay trong các nhà máy, xí nghiệp, việc hiện đại hóa các trang thiết bị, mãy móc sản xuất là nhu cầu tất yếu, nhờ máy mọc và các thiết bị hiện đại mà sản phẩn được làm ra nhiều hơn, từ đó mang lại nguồn thu cho các nhà máy, xí nghiệp; đồng thời cũng giảm bớt hoạt động chân tay của người lao động. Điều đó gây ra một quan niệm sai lầm, phi lý là máy móc cũng tạo ra giá trị thặng dư và giai cấp tư sản không bóc lột công nhân mà bóc lột máy móc. Tuy nhiên, máy móc dù có hiện đại đến đâu cũng cần đến người công nhân “hà hơi”, “tiếp sức”, máy móc không tự nó chạy được mà phải có người cho nó chạy, phải theo dõi quá trình vận hành để xử lý các sự cố. Nói cách khác, nếu không có người công nhân giám sát điều hành thì máy móc cũng không thể hoạt động, khi đó máy móc, thiết bị cũng chỉ là đống sắt vụn. Do đó, giá trị thặng dư nhìn bên ngoài có nhiều người lầm tưởng là máy móc tạo ra nhưng thực chất giá trị thặng dư mà các nhà máy, xí nghiệp được hưởng lại do người công nhân, những người lao động chân chính tạo ra.

Thứ hai, đúng là trong giai đoạn tự động hóa, sức lao động của người công nhân được giảm một cách đáng kể, máy móc không những thay thế lao động cơ bắp mà còn thay thế cả một phần lao động trí óc của con người. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng sản xuất tự động hóa không phải dùng ít lao động chân tay đến mức như người ta tưởng, thậm chí còn nhiều hơn. Thực tế xã hội hiện đại ngày nay, nhờ máy móc mà các lao động cơ bắp được giảm, nhưng số người lao động phải đi làm thuê trong các nhà máy, xí nghiệp cho các ông chủ tư sản vẫn cứ tăng lên. Phải chăng các nhà tư bản hiện đại phải chi trả tiền lương cho công nhân quá lớn nên họ lựa chọn các địa điểm đầu tư tại những khu vực công nhân vừa có tay nghề cao, lại vừa trả tiền công thấp, rồi từ đó cho rằng máy móc tạo ra giá trị thặng dư.

Vậy nên, không có chuyện máy móc thay thế người lao động tạo ra giá trị thặng dư và “luận điểm giai cấp tư sản bóc lột máy móc” là hoàn toàn phi lý./.

Dec 22, 2022

Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối trung thành và giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng

             Tre Việt – Cứ vào dịp Quân đội ta kỷ niệm Ngày thành lập thì các thế lực thù địch, phản động lại ra tăng các luận điệu và hoạt động chống phá; nhất là trên không gian mạng. Nội dung chủ yếu chúng tập trung công kích vào sự trung thành của Quân đội và sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, v.v. Bởi vậy, chúng ta cần nêu cao cảnh giác, nhận diện đúng và kiên quyết đấu tranh bác bỏ mọi xuyên tạc.

Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam ra đời ngày 22/12/1944 từ những tổ chức vũ trang tiền thân trong phong trào đấu tranh cách mạng giành độc lập, tự do của dân tộc, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp sáng lập, tổ chức, lãnh đạo. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định tính tất yếu, đặc thù ra đời và vai trò to lớn của QĐND Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Và, về bản chất, QĐND Việt Nam là Quân đội kiểu mới, công cụ bạo lực vũ trang của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.


Là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa, QĐND Việt Nam cùng với các giai cấp, thành phần của toàn dân tộc tiến hành đấu tranh chống lại các thế lực xâm lược để giành độc lập dân tộc và thực hiện thống nhất nước nhà. Sau khi đất nước độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, QĐND Việt Nam là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tế lịch sử đấu tranh cách mạng cho thấy, từ khi ra đời đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội ta luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao phó. Bản chất giai cấp công nhân và truyền thống vinh quang của Quân đội ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Nhưng thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, có sự đóng góp rất quan trọng của QĐND Việt Nam.

Là Quân đội kiểu mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vì vậy, QĐND Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc. Bản chất đó được biểu hiện sâu sắc ở mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; hệ tư tưởng và nguyên tắc tổ chức xây dựng Quân đội. Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước xã hội chủ nghĩa quyết định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; quyết định các nguyên tắc tổ chức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Hệ tư tưởng trong QĐND Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.  

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã hiến định chương IV về bảo vệ Tổ quốc, bao gồm các Điều 64 đến Điều 68 đã thể hiện đầy đủ, sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc. Bản chất chính trị của lực lượng vũ trang nhân dân nói chung và QĐND Việt Nam nói riêng, thể hiện ở những nội dung cụ thể sau. Thứ nhất, vai trò của QĐND Việt Nam đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Điều 64 quy định: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh. Như vậy, Hiến pháp đã xác định rõ QĐND Việt Nam cùng với các lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, chức năng, nhiệm vụ của QĐND Việt Nam. Điều 65 quy định: Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Thứ ba, phương hướng xây dựng QĐND Việt Nam. Điều 66, 67, 68 quy định: Nhà nước xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Thứ tư, quy định trách nhiệm của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng QĐND Việt Nam. Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh; thực hiện chính sách hậu phương Quân đội; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức phù hợp với tính chất hoạt động của QĐND; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc.

Cần khẳng định rõ: kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; kiên định, giữ vững nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo, Nhà nước quản lý QĐND Việt Nam - là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội và là nhân tố bảo đảm chính trị của Quân đội ta.

Các thế lực thù địch, phản động từ trước đến nay cũng hiểu rất rõ điều này. Do vậy, chúng luôn tìm mọi cách công kích, phá hoại, nhằm tiến tới loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, tạo nguyên cớ cho các thế lực có thâm thù với cách mạng tiến hành “cuộc chiến không đánh mà thắng”, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, việc nhận diện kịp thời và phê phán sự phi lý, phản động của các thế lực thù địch hòng chia rẽ Quân đội với Đảng là việc làm cấp thiết trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Phát huy sức mạnh tổng hợp các tổ chức, các lực lượng trong phòng, chống các luận điệu chống phá Quân đội của các thế lực thù địch, phản động, suy cho cùng là bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với QĐND Việt Nam./.

 

Bức tranh tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam - bác bỏ mọi cáo buộc phi lý

Tre Việt - Trong 5 năm qua (2017 - 2022), Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ vẫn định kỳ ra báo cáo thường niên về tự do tôn giáo toàn cầu. Họ cho mình quyền nhận xét, đánh giá phê phán về tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo của Việt Nam và một số quốc gia khác. Họ sử dụng thông tin tài liệu cũ hoặc không chính thống từ các nhóm, phái tôn giáo chưa được nhà nước công nhận, số chức sắc cực đoan bất mãn với chế độ, định kiến với Đảng, Nhà nước để tiếp nhận thông tin sai lệch, đưa vào báo cáo đánh giá.

Một số tổ chức tìm cách khuyến khích, cổ vũ cho các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, không cần xin phép, đăng ký chính quyền, thúc đẩy các hoạt động “tà đạo, đạo lạ” ở các vùng sâu, vùng xa, gia tăng hoạt động mê tín dị đoan, trái thuần phong mỹ tục, trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Giáo hội và xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, với âm mưu muốn giáo dân chống đối chính quyền. Họ kích động với luận điệu đây là quyền con người “quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do tôn giáo”; xuyên tạc Luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, coi đó là “bước thụt lùi”, “bóp nghẹt tôn giáo” không phù hợp với công ước quốc tế về quyền con người, v.v. Họ kiến nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam trở lại những nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo (CPC), “gây sức ép và hối thúc Việt Nam cho phép tất cả các nhóm, phái tôn giáo chưa được công nhận hoạt động một cách tự do; giảm can thiệp của chính quyền vào các công việc nội bộ của các nhóm tôn giáo đã được công nhận và nhấn mạnh tiến bộ về tự do tôn giáo có ý nghĩa quan trọng đối với việc cải thiện quan hệ song phương”, v.v.

Cần khẳng định rõ: đây là những cáo buộc hết sức phi lý, một chiều, không dựa trên thực tiễn bức tranh tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam (!).


Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo. Ở Việt Nam có những tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hoà Hảo, Cao đài,…) song hành cùng các tôn giáo du nhập từ bên ngoài (Công giáo, Phật giáo, Tin lành,…). Các tôn giáo luôn luôn giữ mối đoàn kết và tôn trọng niềm tin tôn giáo lẫn nhau, đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo thống kê chưa đầy đủ, Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng và tôn giáo (trong hàng nghìn tín ngưỡng thì tín ngưỡng phổ biến là thờ cúng ông bà tổ tiên và tín ngưỡng thờ Mẫu). Tính đến nay, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Hằng năm, Việt Nam có gần 13.000 lễ hội, gồm 05 loại: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài, lễ hội văn hóa – thể thao và ngành nghề. Đến nay, Việt Nam có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ (chiếm 27% dân số), 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận hoặc cấp chứng nhận đăng ký hoạt động. Cả nước hiện có hơn 57,4 ngàn chức sắc, trên 147 ngàn chức việc, hơn 29,6 ngàn cơ sở thờ tự. Số lượng tín đồ theo các tôn giáo hiện nay: Phật giáo 15,1 triệu; Công giáo 7,1 triệu; Cao đài 1,1 triệu; Tin lành 1 triệu; Hồi giáo 80.000; Phật giáo Hòa hảo 1,3 triệu, còn lại là các tôn giáo khác (Tịnh độ Cư sĩ Phật hội, Tứ ân Hiếu nghĩa, Bà La môn, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh sư đạo, Minh lý đạo,…).

Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, dù còn bộn bề công việc, ngày 03/9/1945, tại phiên họp của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào theo đạo. Người nói: “Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương – giáo đoàn kết”. Ngày 14/6/1955, Người đã ký sắc lệnh 234/SL xác định “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Người từng kêu gọi các tôn giáo hãy xóa bỏ hiềm khích, kỳ thị đoàn kết cùng toàn dân lo cho nền độc lập của nước nhà và lịch sử đã chứng minh, dù trong điều kiện khó khăn của đất nước nhưng chức sắc các tôn giáo, đồng bào có đạo giáo khẳng định rõ sự gắn bó đồng hành với dân tộc.

Ngày nay, ở khắp mọi miền của đất nước, đặc biệt là tại các thành phố, các trung tâm tôn giáo lớn, như: Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình, Tây Ninh, Cần Thơ,… các sinh hoạt tôn giáo diễn ra khá sôi nổi, đa dạng và phong phú. Các ngày lễ trọng, các lễ nghi, lễ hội tôn giáo được tổ chức ngày càng trang nghiêm, quy mô hơn trước và thu hút ngày càng đông đảo tín đồ tham dự. Nhiều sinh hoạt tôn giáo đã trở thành sinh hoạt văn hóa cộng đồng được đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia với tinh thần phấn khởi, yên tâm và tin tưởng. Các lễ hội như lễ Phật đản của Phật giáo, lễ Noel của Công giáo và đạo Tin lành, lễ kỷ niệm ngày khai đạo của đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, tháng ăn chay Ramadan của Hồi giáo,… được tổ chức trọng thể, trang nghiêm và đảm bảo an ninh trật tự. Lễ hội của nhiều tôn giáo đều trở thành lễ hội chung vui của toàn dân tộc như lễ Noel, lễ hội La Vang. Đặc biệt, lễ Phật đản của Phật giáo đã chính thức được UNESCO công nhận là một trong những lễ hội tôn giáo lớn của thế giới. Một số lễ hội mang tính thế tục được dư luận quan tâm đánh giá cao, như: Lễ cầu siêu cho những người đã hy sinh trong cuộc kháng chiến do Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức năm 2005; Đại hội hành hương La Vang lần thứ 27 kết hợp “Năm Thánh thể” với quy mô lớn do Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức; Lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội thánh do Tổng hội Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) tổ chức năm 2005, v.v. Bên cạnh những giá trị đạo đức, các tôn giáo còn có hệ thống những lễ hội rất phong phú. Trước đây, việc tổ chức và tham gia lễ hội là công việc nội bộ giáo hội và tín đồ trong đạo; ngày nay, rất nhiều lễ hội tôn giáo không còn là chuyện riêng của từng tôn giáo mà nó có sức lan tỏa, ảnh hưởng lớn trong cộng đồng xã hội như Lễ Giáng sinh, Phục sinh của đạo Công giáo, đạo Tin lành; Lễ Phật đản, Vu lan của Phật giáo; Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung của Hội thánh Cao đài Tây Ninh, v.v. Và Lễ Giáng sinh chỉ là một trong số tám ngàn lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo trong một năm ở Việt Nam. Thực tế không khí sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong các tầng lớp nhân dân những năm qua ngày càng sôi động và có chiều hướng gia tăng. Cứ nhìn vào các lễ hội tôn giáo, các buổi lễ trọng của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian cũng có thể nhận rõ, những sinh hoạt này không chỉ là sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng trong các cộng đồng của đồng bào có đạo mà còn đang trở thành ngày hội thu hút đông đảo người dân tham gia.

Thực tiễn sinh động trên cho thấy: Ðảng và Nhà nước Việt Nam đã luôn tạo mọi điều kiện để nhân dân được tự do tham gia các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng. Việc đa dạng các hoạt động tôn giáo là minh chứng cho quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã và đang được bảo đảm; không chỉ đối với đồng bào theo đạo Công giáo, quy mô và hoạt động tôn giáo của đồng bào theo các tôn giáo khác cũng ngày càng tăng và diễn ra sôi động, đời sống tâm linh của người dân luôn được chính quyền quan tâm.

Những thông tin, luận điệu sai lệch, xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở Việt Nam mà các tổ chức thiếu thiện chí đưa ra tác động đến suy nghĩ, tình cảm của chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo, tạo sự hoài nghi về chính sách, pháp luật về tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Vậy tiêu chí, tiêu chuẩn của Ủy ban Tự do tôn giáo Quốc tế Mỹ là gì? Họ đại diện cho ai để phê phán, đánh giá về tự do tôn giáo của Việt Nam, khi mà các phê phán của họ chỉ là sự lạc lõng, không được chức sắc tôn giáo đồng tình?

Thay lời kết, xin dẫn phát biểu của Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng (chiều 15/12/2022) khẳng định: Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu khách quan, cũng như thông tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam. Chính sách nhất quán của Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền con người, cũng như quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, điều này đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật của Việt Nam và được bảo đảm tôn trọng trên thực tế. Và “Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam về bảo đảm quyền con người, bảo đảm tự do tín ngưỡng tôn giáo cho người dân đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Việt Nam sẵn sàng trao đổi với Mỹ về các vấn đề hai bên cùng quan tâm trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, đóng góp vào thúc đẩy quan hệ Đối tác toàn diện giữa hai nước”./.

Dec 17, 2022

Cần chấm dứt hành động làm phương hại quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ

           Tre Việt - Theo bài viết: “Việt Nam lên tiếng về việc bị Mỹ đưa vào danh sách cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo được đăng tải trên kênh VOA tiếng Việt, ngày 15/12 thì trong Thông cáo báo chí mới đây, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đã công bố danh sách các quốc gia bị Hoa Kỳ đưa vào danh sách theo dõi đặc biệt về quyền tự do tôn giáo, trong đó có Việt Nam “vì đã tham gia hoặc dung túng cho những vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo”. Thông tin này đã  phản ánh không đúng khách quan, không chính xác về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam. Bởi, thực tiễn minh chứng, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn có chính sách nhất quán, tôn trọng và bảo đảm quyền con người cũng như quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Bằng chứng là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương, đường lối về công tác tôn giáo phù hợp với đặc điểm của đất nước đa tôn giáo. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, các chính sách về công tác tôn giáo,… tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tôn giáo. Đồng thời, luôn nỗ lực bảo đảm cho mọi công dân được tự do tham gia các hoạt động tôn giáo theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Cùng với đó, trong bộ máy Nhà nước đã có hệ thống các cơ quan, tổ chức trực tiếp theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động tôn giáo, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các tôn giáo. Hiện nay, chỉ tính riêng trong lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ (chiếm hơn 27% dân số), 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận hoặc cấp chứng nhận đăng ký hoạt động. Trên cả nước hiện có hơn 57.400 chức sắc, hơn 147.000 chức việc, hơn 29.600 cơ sở thờ tự. Những con số “biết nói” đó là minh chứng, “bức tranh” sinh động không thể phủ nhận về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Trong bài viết có nhắc đến một số vụ việc đã bị các cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam bắt giữ, xét xử trong thời gian qua, như: vụ Tịnh Thất Bồng Lai, ông Phan Văn Thu, linh mục Trần Ngọc Thanh. Thực chất, đây là những công dân đã lợi dụng tự do tôn giáo, đội lốt tôn giáo, có những hành động vi phạm pháp luật, nên bị các cơ quan pháp luật điều tra, bắt giữ với đầy đủ chứng cứ, tội danh rõ ràng và đưa ra xét xử công khai, công bằng, đúng người, đúng tội chứ hoàn toàn không có chuyện: “đây là những người liên quan đến thực hành tôn giáo, tù nhân tôn giáo”. Vì thế, nếu chỉ dựa vào những vụ việc trên để tạo cớ rồi cho rằng: “vì đã tham gia hoặc dung túng cho những vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo”, đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là thiếu chính xác, phiến diện.

Về phía Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi với phía Hoa Kỳ về các vấn đề mà hai bên cùng quan tâm, nhất là vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo,… trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, nhằm đóng góp vào quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước ngày càng phát triển tốt đẹp. Song,việc làm trên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại đang làm phương hại đến quan hệ hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ. Bởi vậy, Tre Việt lên án hành động này, yêu cầu cần chấm dứt, không tái diễn./. 

Dec 9, 2022

Lê Nguyễn – kẻ lạc loài đi ngược đạo lý của dân tộc Việt Nam

          Tre Việt - Mới đây, trên mạng xã hội “Danlambao” Lê Nguyễn đã giật tít: “Đừng cố nhồi nhét tư tưởng, đạo đức dân tộc vào đầu Hồ Chí Minh” với nội dung phủ nhận thành quả đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc của nhân dân ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài viết của Lê Nguyễn thể hiện rõ tư tưởng chống cộng điên cuồng, mù quáng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Với tư tưởng, quan điểm của một kẻ chống cộng, trong bài viết Lê Nguyễn không chỉ xúc phạm đến thân thế, sự nghiệp, công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn thể hiện đạo đức, thái độ ứng nhân, xử thế rất thiếu văn hóa, xa lạ và đi ngược với truyền thống yêu nước, văn hiến, đạo lý của dân tộc Việt Nam.

Cho đến nay, hàng trăm triệu người trong xã hội đều biết khá rõ về tư tưởng, đạo đức, cuộc đời hoạt động cách mạng trong sáng của Hồ Chí Minh; đã có vô số bài nói, bài viết của các nhà khoa học, nhiều cuộc hội thảo quốc tế, nhiều công trình khoa học lớn đã nghiên cứu, ghi nhận, tôn vinh cuộc đời, công lao to lớn của Hồ Chí Minh đối với nhân dân lao động Việt Nam và nhân loại cần lao trên thế giới. Đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất lớn: tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn cho cách mạng Việt Nam; sáng lập, giáo dục, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một chính đảng Mác xít chân chính; sáng lập, giáo dục, rèn luyện Quân đội nhân dân Việt Nam; sáng lập, xây dựng Nhà nước vô sản của dân, do dân, vì dân; cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân đánh bại thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; quyết định đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội, v.v.

Tư tưởng, đạo đức, cuộc đời hoạt động trong sáng “không gợn chút riêng tư” của Hồ Chí Minh đã và đang được nhân dân Việt Nam, nhân dân tiến bộ trên thế giới viết lại, kể lại, với tình cảm biết ơn, sự ngưỡng mộ, kính trọng; thế giới tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất”. Những giá trị cách mạng, khoa học, nhân văn trong tư tưởng, đạo đức, cuộc đời cách mạng trong sáng hết mình vì nước, vì dân của Hồ Chí Minh đang tiếp tục, tỏa sáng, thu hút hàng chục triệu người dân Việt Nam đón nhận, học tập và làm theo.

          Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc, của Đảng ta, là niềm tự hào của mọi thế hệ người Việt Nam, là sức mạnh tinh thần, trở thành động lực thúc đẩy chúng ta trong đổi mới, hội nhập để phát triển. Tư tưởng, đạo đức và phong cách của Hồ Chí Minh, trở thành giá trị chuẩn mực và định hướng giá trị trong giáo dục, hành động cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa.

          Nội dung của bài viết “Đừng cố nhồi nhét tư tưởng, đạo đức dân tộc vào đầu Hồ Chí Minh” trên mạng xã hội “Danlambao” của Lê Nguyễn là hết sức độc địa, trái ngược hoàn toàn với sự thật lịch sử; là sự vu khống trắng trợn, bôi nhọ, làm tổn hại thanh danh, uy tín, tình cảm yêu thương, thủy chung mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh đã dành cho nhân dân Việt Nam. Rõ ràng, Lê Nguyễn đích thị cùng “họ hàng”, cùng “dòng máu” phản động với những kẻ đã từng làm tay sai cho bọn đế quốc, thâm thù cách mạng. Vì vậy, cần vạch trần chân tướng những kẻ lạc loài đi ngược đạo lý của dân tộc Việt Nam như Lê Nguyễn, đấu tranh loại trừ chúng ra khỏi tiến trình xây dựng, phát triển đất nước./.

 

 

Dec 6, 2022

Thực tiễn vấn đề nhân quyền tại Việt Nam bác bỏ mọi xuyên tạc

          Tre Việt - Thông qua không gian mạng, các hội nhóm phản động ngoài nước cấu kết với trong nước gia tăng các hoạt động lợi dụng mạng xã hội để tán phát các clip có nội dung kích động, xuyên tạc, vu cáo chính quyền Việt Nam đàn áp, bắt bớ “người biểu tình yêu nước”, đòi quốc tế can thiệp, hậu thuẫn. Một số hội nhóm phản động từ hải ngoại thường xuyên phát tán các clip kêu gọi người dân xuống đường biểu tình, tiêm nhiễm các tư tưởng chống đối cực đoan, quá khích cho một số nhóm đối tượng để thực hiện hành vi phá hoại, bạo loạn.

Thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam
 trên không gian mạng của các thế lực thù địch
ngày càng tinh vi (Ảnh: Minh Họa)

Theo số liệu của Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông, trong 05 tháng đầu năm 2022, có hơn 65.000 nội dung liên quan đến vấn đề nhân quyền mà các thế lực thù địch tập trung chống phá, như: (1). Tám tổ chức phản động (“Mạng lưới nhân quyền Việt Nam”, “Người bảo vệ nhân quyền”, “Đại Việt quốc dân Đảng”, “Đảng nhân bản xã hội”, “Họp mặt dân chủ”, “Lực lượng dân tộc cứu nguy Tổ quốc”, “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam”, “Đài phát thanh Đáp lời sông núi”) kêu gọi các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc không bỏ phiếu cho Việt Nam làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025; (2). Tổ chức về Nhân quyền Freedom House xếp Việt Nam vào nhóm các quốc gia không được tự do sử dụng in-tơ-nét. Nhiều năm qua tổ chức này vẫn giữ quan điểm cho rằng Việt Nam là quốc gia mà người dân không được sử dụng in-tơ-nét. Trong khi con số thực tế cho thấy, Việt Nam là nước có tỷ lệ người dân sử dụng in-tơ-nét thuộc top đầu trên thế giới; (3). Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) công bố Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới năm 2022 nhân Ngày Tự do Báo chí Thế giới ngày 03/5/2022 đã xếp Việt Nam ở vị trí 174/180 quốc gia và vùng lãnh thổ; (4). Các tổ chức, cá nhân phản động trong và ngoài nước tiếp tục lợi dụng cuộc xung đột quân sự Nga – U-crai-na để phát tán nhiều bài viết, hình ảnh, clip, biểu tình phản đối chính quyền Việt Nam ủng hộ chiến tranh xâm lược; (5). Công bố thư ngỏ kêu gọi các nước thành viên Liên hiệp quốc không bỏ phiếu cho Việt Nam và Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2023 – 2025; (6). Cơ quan nghiên cứu của Nghị viện châu Âu công bố bản báo cáo về các hoạt động hỗ trợ những nhà hoạt động nhân quyền trên toàn thế giới; trong đó có những thông tin, nhận định thiếu khách quan, công bằng, dựa trên một số thông tin sai lệch, không có cơ sở, không phản ánh đúng thực tế về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Nghị viện châu Âu cho rằng, họ đã gặp nhiều giới hạn trong việc bảo vệ những nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam; cáo buộc Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền”, “đàn áp, bỏ tù người vô tội”; thậm chí, cho rằng Việt Nam là “chế độ đàn áp”. Trên thực tế, danh sách những “nạn nhân” được liệt kê trong báo cáo này lại là những đối tượng chống phá cộm cán, như: Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Tiến Trung hay gần đây nhất là Phạm Thị Đoan Trang. Đây không phải là lần đầu Nghị viện châu Âu đưa ra những đánh giá, nhận định sai lệch, thiếu khách quan, thiếu thiện chí về tình hình nhân quyền tại Việt Nam.

Thực tiễn vấn đề nhân quyền tại Việt Nam là minh chứng bác bỏ mọi xuyên tạc

Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và công cuộc phát triển đất nước và luôn nỗ lực vì mục tiêu nâng cao đời sống, quyền thụ hưởng của người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau. Các quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam, được bảo vệ và thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai trong thực tiễn. Ở Việt Nam, tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, bởi bất cứ ai và vì bất cứ lý do gì, đều phải bị xét xử nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và bảo đảm sự thụ hưởng đầy đủ các quyền và tự do của mỗi người dân trong một xã hội an toàn, trật tự và công bằng. Không ai bị bắt giữ, xét xử vì thực hiện các quyền con người một cách chính đáng. Đối với trường hợp, như: Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Tiến Trung hay Phạm Thị Đoan Trang được nhắc đến trong báo cáo của Nghị viện Châu Âu là “tù nhân chính trị” thực chất là những đối tượng núp bóng “dân chủ”, “nhân quyền”, thường xuyên có các hoạt động chống phá, kích động bạo lực, lôi kéo, tập trung các đối tượng xấu để gây rối trật tự công cộng nhằm mục đích phá vỡ sự ổn định chính trị của đất nước, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây là những hành vi vi phạm pháp luật, cần phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, hoàn toàn không phải hành động “đàn áp người đấu tranh” như một số nhận định chủ quan, phiến diện, một chiều, mang tính bao biện cho các sai phạm của những phần tử chống đối.

Những năm qua, dù đời sống kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn nhưng Việt Nam luôn nỗ lực và đã đạt được những kết quả tích cực trong bảo vệ quyền con người. Theo Báo cáo kinh tế - xã hội tại Đại hội XIII của Đảng, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020; đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; tại Việt Nam không có khủng bố, người dân được sinh sống và lao động trong môi trường an ninh, an toàn, ổn định, v.v. Còn theo Báo cáo Hạnh phúc thế giới năm 2022 của Liên hiệp quốc, chỉ số hạnh phúc quốc gia của Việt Nam xếp vị trí 77 (tăng 02 bậc so với năm 2021). Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi, đối thoại cởi mở với các tổ chức quốc tế về quyền con người trên tinh thần xây dựng nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau; để các cơ quan, tổ chức quốc tế có những nhận định, đánh giá thực tiễn tình hình nhân quyền trong nước trên cơ sở công bằng, minh bạch, khách quan. Đồng thời, Việt Nam không bao giờ chấp nhận và kiên quyết đấu tranh với những luận điệu, đánh giá chủ quan, phiến diện, thiếu thiện chí, không có cơ sở, không phản ánh đúng tình hình thực tế tại Việt Nam.

Và vừa qua, Việt Nam tiếp tục được cộng đồng quốc tế ủng hộ, trúng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025. Việc trúng cử trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền lần thứ hai thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền của người dân trên tất cả các lĩnh vực. Đây cũng là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, là bước tiến mới trong nỗ lực triển khai đường lối đối ngoại của Đại hội XIII của Đảng và Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến 2030. Đó là minh chứng cho thấy vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được củng cố, nâng cao.

Nhân quyền là một lĩnh vực rộng, liên quan trực tiếp đến mọi mặt của đời sống con người, bởi vậy, Việt Nam luôn và đang tiếp tục hướng tới mục tiêu đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn mọi âm mưu, thủ đoạn sử dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá cách mạng Việt Nam./.