Apr 3, 2025

Cảnh giác với những lời kêu gọi thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam

 Kêu gọi Việt Nam thay đổi thể chế chính trị hiện nay là một thủ đoạn rất thâm độc của các thế lực thù địch, nhằm kích động tư tưởng đòi thiết lập chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, hướng lái đất nước đi theo thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Đó là những lời kêu gọi rất nguy hiểm, cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.

Thủ đoạn này không mới, nhưng lại được các thế lực thù địch “hâm nóng” khi Nhà nước ta có những thay đổi nhân sự lãnh đạo ở cấp cao nhất và Đảng ta đang bước vào thời gian tiến hành đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV, đất nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Để thực hiện thủ đoạn này, các thế lực thù địch thường tung ra rất nhiều luận điệu xuyên tạc về thể chế chính trị ở nước ta gắn với sự độc tôn lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đơn cử, họ cho rằng: “Thể chế chính trị với một đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo thì không có dân chủ, cản trở sự phát triển của đất nước và là nguyên nhân của tham nhũng”, hay “một đảng cầm quyền thì không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, độc trị” (!). Từ đó, họ kêu gọi: “Cần loại bỏ sự toàn trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng” (!). Gần đây, lợi dụng phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV, ngày 21/10/2024: “Trong ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực thì thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn”, các thế lực thù địch xuyên tạc và kêu gọi “đã đến lúc phải xóa bỏ điểm nghẽn của điểm nghẽn đó” (!). Trắng trợn hơn, ngày 25/10/2024, tổ chức khủng bố Việt Tân đăng trên trang facebook của mình rằng: “Điểm nghẽn sự phát triển của Việt Nam là Điều 4 Hiến pháp (Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)”, do vậy “Chỉ cần quất một phát cho Điều 4 Hiến pháp đi chỗ khác chơi là giải quyết được mọi vấn đề của đất nước” (!), v.v. Mục tiêu của tất cả những luận điệu xuyên tạc, sai trái nói trên đều hướng tới cổ vũ cho lời kêu gọi chuyển đổi thể chế chính trị hiện hành sang thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Những luận điệu đó thật thâm độc, hoàn toàn sai trái, cần kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.

Trước hết, quan điểm một đảng cầm quyền chỉ dẫn đến độc tài, mất dân chủ, cản trở sự phát triển, còn đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển” là hoàn toàn không có cơ sở khoa họcTrên phương diện lý luận, dân chủ và phát triển không phụ thuộc vào thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, hay do một đảng cầm quyền - lãnh đạo xã hội. Nói cách khác, một quốc gia thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng không hẳn là có dân chủ, không dẫn tới độc tài; ngược lại, một nước chỉ duy nhất có một đảng lãnh đạo - cầm quyền, cũng không có nghĩa rằng đó là chế độ độc tài, mất dân chủ. Do vậy, không phải cứ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì mới có dân chủ và không có đa nguyên, đa đảng thì không có dân chủ. Bởi, bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Theo đó, một đất nước có thể chế dù là nhất nguyên hay đa nguyên, một đảng hay nhiều đảng, nhưng nếu chính đảng cầm quyền và nhà nước bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân thì xã hội đó có dân chủ thực sự. Mặt khác, ở các nước theo thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, về hình thức là dựa trên chế độ đa đảng, nhưng về bản chất vẫn dựa trên sự nhất nguyên chính trị; nghĩa là vẫn dựa trên chế độ một đảng - đảng tư sản. Đảng tư sản nào cầm quyền cũng là kết quả sự phân chia quyền lực giữa các phe phái của giai cấp tư sản, đại diện và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản là chủ yếu.

Trên phương diện thực tiễn, có thể thấy ở nhiều quốc gia trên thế giới theo chế độ đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, chính trị không ổn định, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển, điển hình như nhiều nước ở châu Phi. Trong khi đó, nhiều quốc gia chỉ có một đảng lãnh đạo nhưng chính trị ổn định, dân chủ được phát huy, kinh tế - xã hội vẫn phát triển, đời sống nhân dân được đảm bảo và ngày càng cải thiện, như ở Trung Quốc và Việt Nam hiện nay. Lịch sử thế giới trong thế kỷ XX cũng cho thấy, trong những giai đoạn lịch sử nhất định, chính thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng lại gắn liền với các chế độ độc tài, hạn chế dân chủ như chế độ độc tài của Hitle ở nước Đức quốc xã, Mussolini ở nước Ý phát xít, Park Chung-hee ở Hàn Quốc, Pinochet ở Chile, Suharto ở Indonesia, v.v. Mặt khác, lịch sử cũng ghi nhận thời kỳ Tổng thống Park Chung-hee cầm quyền (1961 - 1979), duy trì chế độ độc tài, nhưng kinh tế Hàn Quốc vẫn có sự phát triển thần kỳ; từ một quốc gia đói nghèo với thu nhập bình quân đầu người năm 1961 chỉ 94 USD/năm đã tăng lên đến 1.784 USD/năm vào năm 1979, trở thành “con Rồng châu Á”. Điều đó cho thấy luận điểm “chế độ đa đảng thì có dân chủ và phát triển, còn một đảng thì mất dân chủ và cản trở sự phát triển” không thể đứng vững. Việc duy trì chế độ một đảng lãnh đạo - cầm quyền, hay đa đảng phụ thuộc vào những điều kiện chính trị, lịch sử, xã hội, văn hóa, tôn giáo,… cụ thể của mỗi dân tộc; và mỗi quốc gia, dân tộc lựa chọn thể chế chính trị nào, đa đảng hay một đảng là quyền tự quyết của quốc gia, dân tộc đó. Điều này hoàn toàn phù hợp với Điều 1 của cả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị cũng như Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa mà Liên hợp quốc đã thông qua.

Thứ hai, coi tham nhũng là “căn bệnh kinh niên” của chế độ một đảng cầm quyền cũng là luận điểm hoàn toàn sai trái. Bởi lẽ, về mặt lý luận, tệ nạn tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực; ở đâu có quyền lực, ở đó có nguy cơ xảy ra tham nhũng, một khi quyền lực bị lạm dụng. Tham nhũng là “căn bệnh” của nhà nước, do quyền lực nhà nước bị thao túng, tha hóa gây ra; có nhà nước là có tham nhũng, không phân biệt nhà nước đó tổ chức theo thể chế chính trị đa đảng hay một đảng. Mặt khác, nếu quyền lực được kiểm soát chặt chẽ với cơ chế quản lý, phòng ngừa đồng bộ, ngày càng hoàn thiện, thì tình trạng tham nhũng sẽ được kiểm soát và hạn chế tối đa. Do đó, chế độ một đảng lãnh đạo - cầm quyền không phải là nguyên nhân sinh ra tham nhũng và cũng không phải là không thể chống được tham nhũng. Về mặt thực tiễn, ở các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa, duy trì chế độ đa đảng, tham nhũng vẫn tồn tại; thậm chí một số nguyên thủ quốc gia (như ở: Tunisia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippin, Indonesia, Pakixtan, Brazil,…) cũng dính vào tội tham nhũng. Chẳng thế mà hằng năm, Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) đều công bố chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) trong khu vực công, để cung cấp cái nhìn tổng quát về mức độ tham nhũng tương đối của 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, chủ yếu là các quốc gia đi theo thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện chế độ đa đảng. Nhìn vào bảng xếp hạng CPI năm 2023 (công bố ngày 30/01/2024) có thể thấy rất rõ quốc gia nào cũng có tham nhũng, chỉ khác nhau ở mức độ nghiêm trọng, bởi không có quốc gia nào đạt được điểm 100 (tức là không có tham nhũng). Những nước đứng đầu bảng xếp hạng CPI là Đan Mạch, Phần Lan và New Zealand, cũng chỉ đạt lần lượt là 90, 87, 85 điểm, nghĩa là vẫn có tham nhũng. Còn những nước đứng cuối bảng là: Somalia, Syria và Nam Sudan chỉ đạt từ 11 đến 13 điểm, đều là các nước theo thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Bảng xếp hạng còn cho biết trong giai đoạn 2012 - 2023, có 34 quốc gia đã giảm đáng kể về chỉ số CPI, nghĩa là tham nhũng ở những nước này có xu hướng gia tăng, trong đó có Thụy Điển, Vương quốc Anh - những nước theo chế độ đa đảng. Điều đó chứng tỏ luận điểm “chế độ một đảng là nguyên nhân tham nhũng” chỉ là sự xuyên tạc, bịa đặt, không có cơ sở khoa học và thực tiễn vững chắc.

Ở nước ta, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, sự lãnh đạo độc tôn của Đảng luôn là nhân tố đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó là sự lựa chọn khách quan, khắt khe của lịch sử trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và xây dựng đất nước trong hòa bình. Do vậy, nói “Chế độ độc đảng là nguyên nhân tham nhũng, cản trở dân chủ và phát triển” là sự xuyên tạc, bịa đặt, coi thường tính khách quan của lịch sử. Trên thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại diện chân chính duy nhất cho lợi ích và nguyện vọng của nhân dân lao động, của cả dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống, quyền tự do, dân chủ và quyền mưu cầu hạnh phúc. Ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không một lực lượng chính trị nào ở Việt Nam có thể đưa ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn để tập hợp được mọi tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Lịch sử đã ghi nhận rằng, trong mấy chục năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhân dân ta đã liên tục vùng lên dưới ngọn cờ lãnh đạo của các giai cấp: phong kiến, tiểu tư sản và tư sản dân tộc để đấu tranh chống thực dân Pháp, nhằm giành lại độc lập cho dân tộc, nhưng không có lấy một thành công. Bởi, các ngọn cờ đó không phù hợp với xu thế của thời đại, không đưa ra được đường lối đúng đắn cho phép giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam, không thỏa mãn được lợi ích và nguyện vọng chính đáng của cả dân tộc, nên không tập hợp được sức mạnh của cả dân tộc. Chính sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, với vai trò kiệt xuất của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong phong trào yêu nước của dân tộc ta lúc đó; đánh dấu sự kết thúc thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước của dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945; tiếp đó là giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng chính Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục độc tôn lãnh đạo nhân dân cả nước đánh bại mọi chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó, trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng chính Đảng Cộng sản Việt Nam là người khởi xướng và lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới nhằm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới gần 40 năm qua đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 trong 200 quốc gia trên toàn thế giới; xây dựng được các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực1. Hai lần được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009 và 2020 - 2021); hai lần đảm trách nhiệm vụ thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016 và 2023 - 2025); từ năm 2014, bắt đầu tham gia vào sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc là minh chứng vững chắc khẳng định vị thế và uy tín quốc tế của Việt  Nam trên trường quốc tế. Trên lĩnh vực kinh tế, nước ta đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới từ năm 2007; đến nay đã có quan hệ thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những thành tựu to lớn. Từ chỗ phải nhập khẩu lương thực, nay chúng ta đã đứng vào nhóm nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu lương thực2 và nhiều mặt hàng khác. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kinh tế kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình. Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước không ngừng tăng lên, từ chỗ chỉ đạt 6,3 tỉ USD vào năm 1989, thì đến năm 2024 đạt 476,3 tỉ USD, đứng thứ 32 nền kinh tế lớn nhất thế giới, trong nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài3. Nhờ đó, đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người trong những năm đầu đổi mới chỉ khoảng 250 USD/năm, thì đến năm 2024 đạt 4.700 USD, đứng thứ năm trong ASEAN. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống còn 1,93% năm 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều, được Liên hợp quốc xếp là một trong những nước đứng đầu trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Văn hóa - xã hội có bước phát triển tích cực; dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng; quyền làm chủ của người dân ngày càng được phát huy. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” được thực hiện ngày càng hiệu quả. Quy chế Dân chủ cơ sở được tổ chức thực hiện rộng rãi, ngày càng chặt chẽ theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đã góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, tăng cường sự đoàn kết dân tộc, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, tạo nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nói trên luôn gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là minh chứng sinh động bác bỏ sự xuyên tạc về thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay. Xin nhấn mạnh rằng, trong cam kết của tất cả các nước khi đặt quan hệ, hoặc nâng cấp quan hệ ngoại giao với Việt Nam, kể cả Hoa Kỳ gần đây, đều khẳng định sự “tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của Việt Nam”4. Vì vậy, kêu gọi Việt Nam thay đổi thể chế chính trị của các thế lực thù địch chỉ là tiếng nói lạc lõng, nhưng cần cảnh giác.

NGUYỄN NGỌC HỒI
_______________
        

1 - Tính đến tháng 11/2024, Việt Nam có quan hệ Đối tác chiến lược và toàn diện với 32 quốc gia; trong đó, có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 09 quốc gia là: Trung Quốc (5/2008), Liên bang Nga (7/2012), Ấn Độ (9/2016), Hàn Quốc (12/2022), Mỹ (9/2023), Nhật Bản (11/2023), Australia (3/2024), Pháp (10/2024) và Malaysia (11/2024). Đối với Lào và Campuchia là quan hệ đặc biệt.

2 - Năm 2024, xuất khẩu gạo đạt 09 triệu tấn.

3 - Năm 2024, tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt 786,29 tỉ USD; Việt Nam nằm trong 15 nước đang phát triển thu hút vốn FDI lớn nhất thế giới.

4 - Phát biểu của Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Joe Biden trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 10 - 11/9/2023.

Kỷ nguyên vươn mình không phải bánh vẽ

            Nguyễn Văn Lợi, một kẻ ẩn danh dưới bút danh trên mạng xã hội, đã tung ra bài viết mang tên “Kỷ nguyên vươn mình chỉ là ‘bánh vẽ’?”, chứa đựng những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tổng Bí thư Tô Lâm về “kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”. Y trắng trợn cho rằng khái niệm này chỉ là “khẩu hiệu”, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn, đồng thời rêu rao rằng Việt Nam muốn vươn lên thì phải xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp, thực hiện tam quyền phân lập và dân chủ đa nguyên. Những lời lẽ bẩn thỉu này không chỉ phơi bày dã tâm chống phá của Nguyễn Văn Lợi mà còn nhằm kích động, gây nghi ngờ trong nhân dân, phủ nhận những thành tựu to lớn mà đất nước đã đạt được sau 40 năm đổi mới. Trước luận điệu độc hại này, cần đấu tranh mạnh mẽ, vạch trần sự thật và khẳng định tính đúng đắn, khoa học của “kỷ nguyên vươn mình” mà Đảng và nhân dân Việt Nam đang hướng tới.

Tổng bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề về
"Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình
của dân tộc Việt Nam - Ảnh: TTXVN

Nguyễn Văn Lợi mở đầu bằng việc xuyên tạc rằng “trong suốt 80 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam tồn tại dựa trên sự tiếm quyền, không phải sự lựa chọn của nhân dân”. Đây là một sự bóp méo lịch sử trắng trợn, đi ngược lại thực tế mà cả dân tộc Việt Nam và cộng đồng quốc tế đã chứng kiến. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đưa Việt Nam từ một nước thuộc địa nghèo nàn trở thành quốc gia độc lập, có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế. Hơn 94 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và tin tưởng con đường xã hội chủ nghĩa, điều được ghi nhận rõ ràng trong Điều 4 Hiến pháp 2013: Đảng là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát và trách nhiệm trước nhân dân. Vai trò này không phải “tiếm quyền” như Nguyễn Văn Lợi vu khống, mà là sự giao phó thiêng liêng của lịch sử và ý chí của toàn dân. Thực tế, sau 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu vượt bậc: kinh tế tăng trưởng gấp 96 lần từ năm 1986 đến 2023, thuộc top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược với các cường quốc. Những con số này không phải là “bánh vẽ” mà là minh chứng sống động cho sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự đồng lòng của nhân dân, điều mà Nguyễn Văn Lợi cố tình lờ đi để phục vụ mưu đồ chống phá.

“Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” mà Tổng Bí thư Tô Lâm đề cập trong Hội nghị Trung ương lần thứ 10 không phải là khẩu hiệu suông hay sản phẩm của sự tưởng tượng, mà là tầm nhìn chiến lược dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Kỷ nguyên, theo khái niệm lịch sử, là giai đoạn phát triển đặc biệt, đánh dấu những bước chuyển mình vượt bậc của một quốc gia. Với Việt Nam, kỷ nguyên vươn mình là thời kỳ mà đất nước hội tụ đủ điều kiện để bứt phá, dựa trên thế và lực tích lũy sau 40 năm đổi mới, kết hợp với thời cơ từ bối cảnh quốc tế. Về mặt khách quan, thế giới đang chứng kiến xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, dù vẫn còn xung đột. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, Internet vạn vật đang mở ra cơ hội chưa từng có cho các quốc gia biết tận dụng khoa học - công nghệ để phát triển. Việt Nam, với vị thế ngày càng cao, đang tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, thu hút đầu tư và ứng dụng công nghệ hiện đại, tạo nền tảng để vươn lên trong trật tự thế giới mới. Về mặt chủ quan, sau 40 năm đổi mới, Việt Nam đã xây dựng được nội lực mạnh mẽ: kinh tế phát triển vượt bậc, chính trị ổn định dưới sự lãnh đạo của Đảng, xã hội ngày càng công bằng, an ninh - quốc phòng được củng cố, và quan hệ quốc tế mở rộng. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh rằng, với nguồn lực nội sinh, con người làm nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo làm đột phá, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để bước vào kỷ nguyên mới. Đây không phải là “bánh vẽ” như Nguyễn Văn Lợi xuyên tạc, mà là định hướng chiến lược được đúc kết từ thực tiễn, phản ánh khát vọng của toàn dân tộc.

Nguyễn Văn Lợi còn rêu rao rằng “kỷ nguyên vươn mình” chỉ là chiêu bài tuyên truyền, thiếu thực tế, và Việt Nam muốn phát triển thì phải xóa Điều 4 Hiến pháp, thực hiện tam quyền phân lập và đa nguyên đa đảng. Đây là luận điệu quen thuộc của các thế lực thù địch, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và đẩy Việt Nam vào con đường lệ thuộc phương Tây. Thực tế, mô hình nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp 2013 là “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, quyền lực nhà nước thống nhất, không phân chia tam quyền mà phân công, phối hợp giữa các cơ quan dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính mô hình này đã giúp Việt Nam giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế và bảo vệ độc lập, chủ quyền trong suốt gần một thế kỷ qua. Việc đòi xóa Điều 4 Hiến pháp không chỉ là âm mưu xóa bỏ vai trò của Đảng mà còn muốn phá vỡ sự ổn định, đoàn kết của dân tộc - điều mà lịch sử đã chứng minh là yếu tố sống còn để Việt Nam vượt qua mọi thử thách. Nhìn ra thế giới, những quốc gia bị lôi kéo vào đa nguyên, đa đảng dưới chiêu bài “dân chủ” của phương Tây như Iraq, Libya đã rơi vào hỗn loạn, chiến tranh, người dân chịu cảnh lầm than. Việt Nam, với con đường xã hội chủ nghĩa phù hợp lịch sử và văn hóa dân tộc, không cần và không bao giờ chạy theo mô hình xa lạ mà Nguyễn Văn Lợi ra sức cổ súy.

Hơn nữa, luận điệu của Nguyễn Văn Lợi còn kích động “dân tộc Việt Nam cần đứng lên tranh đấu” vì một “Việt Nam tự do, dân chủ, giàu mạnh”. Đây là chiêu bài bẩn thỉu nhằm kêu gọi bạo loạn, lật đổ chế độ, nhưng chỉ là tiếng kêu tuyệt vọng của một kẻ lạc lõng trước dòng chảy lịch sử. Thực tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã và đang thực hiện khát vọng “giàu mạnh” bằng những bước đi cụ thể: từ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, đến ứng dụng khoa học – công nghệ để hiện đại hóa đất nước. Tự do và dân chủ không phải là thứ mà Nguyễn Văn Lợi và các thế lực thù địch có thể ban phát, bởi nhân dân Việt Nam đã giành được tự do qua máu xương của hàng triệu anh hùng liệt sĩ, và đang thực hành dân chủ thực chất qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Những thành tựu như đưa GDP bình quân đầu người từ vài trăm USD năm 1986 lên hơn 4.000 USD hiện nay, hay vị thế quốc tế ngày càng cao, là bằng chứng rõ ràng rằng Việt Nam không cần “tranh đấu” theo kiểu kích động của Nguyễn Văn Lợi, mà đang vươn lên bằng nội lực và sự đồng lòng của toàn dân.

Tóm lại, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” không phải là “bánh vẽ” như Nguyễn Văn Lợi xuyên tạc, mà là tầm nhìn chiến lược, có cơ sở khoa học và thực tiễn, phản ánh khát vọng của cả dân tộc. Những luận điệu của y chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng và ác ý, không thể làm lung lay niềm tin của nhân dân vào Đảng và con đường phát triển của đất nước. Việt Nam, với thế và lực hiện có, đang vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, bất chấp mọi chiêu trò bôi nhọ của các thế lực thù địch. Nhân dân cần cảnh giác trước những kẻ như Nguyễn Văn Lợi, nhận diện rõ dã tâm chống phá và tiếp tục ủng hộ Đảng trong hành trình đưa đất nước vươn xa trên trường quốc tế.

(nguồn: nhanquyen.vn)