Aug 31, 2022

Đừng bị “lạc trôi” theo những lời tung hô, kích động

           Ngày 25/8, TAND cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm, xét đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Thị Đoan Trang (sinh năm 1978, trú tại phường Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội) trong vụ án “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”.

Cũng tương tự như tại phiên sơ thẩm, các trang mạng truyền thông chống phá Việt Nam ở nước ngoài lại tiếp tục điệp khúc “kêu oan” cho bị cáo Phạm Thị Đoan Trang. Họ đưa ra các bài viết tô vẽ hình tượng, tạo dựng một bị cáo “giữ vững chí khí”, lập luận rằng Phạm Thị Đoan Trang không phạm tội, cần “trả tự do ngay lập tức”!

Cũng với cách tiếp cận này, một số trang mạng còn dùng chiêu “cập nhật diễn biến phiên toà”, đưa thông tin, hình ảnh trong và ngoài phiên toà, thông tin về sức khoẻ, thái độ bị cáo, về thân nhân, việc tranh tụng tại toà… nhằm tạo điểm nhấn gây chú ý như là một sự kiện “bất thường”! Không ít bài viết lấy cớ “minh oan” cho bị cáo, đưa ra lời lẽ phê phán, đả kích phiên toà, đả kích nền tư pháp Việt Nam, từ đó coi đây là “dẫn chứng” để rêu rao trước công luận về “phiên toà bịt miệng”, một thể chế người dân bị bỏ tù vì “dám lên tiếng đấu tranh cho tự do, dân chủ”!

Điều đáng nói, sự tung hô, đánh tráo bản chất vụ án của các trang mạng truyền thông này được sự hậu thuẫn từ những tuyên bố sai lệch của một số cơ quan ngoại giao. Sau khi kết thúc phiên toà, tuyên bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nêu “Hoa Kỳ hết sức lo ngại trước bản án được giữ nguyên và bản án 9 năm tù đối với tác giả và nhà báo Việt Nam nổi tiếng Phạm Thị Đoan Trang”.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Ned Price nói rằng, việc bị cáo Phạm Thị Đoan Trang tiếp tục bị giam giữ là trường hợp mới nhất trong “một mô hình đáng báo động về việc bắt giữ và kết án các cá nhân ở Việt Nam vì đã bày tỏ ý kiến một cách ôn hòa”. Từ đó, bản tuyên bố “kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do cho bà Trang”!

Trước đó, cũng chính Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã trao cái gọi là “Giải thưởng Phụ nữ Dũng cảm quốc tế (IWOC) năm 2022” cho Phạm Thị Đoan Trang với những lý do rất dễ tạo cớ cho các thế lực chống phá Việt Nam “bấu víu”. Cùng với đó, tuyên bố của người phát ngôn EU cũng đưa ra những thông tin lệch lạc khi cho rằng, tòa phúc thẩm Hà Nội giữ nguyên bản án đối với Phạm Đoan Trang với “tội danh mơ hồ”, “bắt giữ tuỳ tiện”, từ đó đưa ra những bình luận sai trái: “Nhiều vụ bắt giữ và kết án tùy tiện đối với các nhà hoạt động ôn hòa và các nhà báo là trái ngược trực tiếp với luật nhân quyền quốc tế”. Cũng “té nước theo mưa”, tổ chức Phóng viên Không biên giới (RSF) ra thông cáo bày tỏ “sự bất bình trước bản án phúc thẩm của bà Trang”! Cũng chính RSF từng tung ra trò giải thưởng báo chí rồi “vinh danh” người đoạt giải RSF 2019 về quyền tự do báo chí cho Phạm Thị Đoan Trang. Lần này, RSF lấy cớ phiên phúc thẩm y án 9 năm tù với bị cáo rồi “kêu gọi các đối tác thương mại của Việt Nam, chẳng hạn như EU và Hoa Kỳ, yêu cầu trả tự do cho bà Phạm Đoan Trang như một phần trong thỏa thuận của họ với Hà Nội”.

Ông Daniel Bastard, Giám đốc văn phòng châu Á – Thái Bình Dương của RSF đưa ra những lời lẽ cố tình phớt lờ sự thật để nhằm lấy cớ chỉ trích Việt Nam: “Cuộc chiến của bà Trang cho một nền báo chí tự do cho tất cả mọi người vượt ra ngoài biên giới của đất nước, đó là cuộc chiến cho một quyền phổ biến”. “Thổi lửa” sự kiện này, Ủy ban Bảo vệ ký giả (CPJ) dẫn lời ông Shawn Crispin, đại diện khu vực Đông Nam Á của tổ chức này: “CPJ mạnh mẽ lên án phán quyết của tòa án ngày hôm nay bác bỏ kháng cáo của nhà báo Phạm Thị Đoan Trang về bản án 9 năm tù của bà. Việt Nam phải trả tự do cho bà Trang và tất cả các nhà báo khác mà nước này giam giữ một cách sai trái sau song sắt”! Cũng chính CPJ mới đây đã ra tuyên bố sẽ trao “Giải thưởng Tự do báo chí Quốc tế (IPFA) năm 2022” cho Phạm Thị Đoan Trang, dự kiến vào cuối năm 2022.

Như vậy, từ những phát ngôn của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, EU với những thông tin sai lệch về vụ án cũng như đưa ra những tuyên bố, kêu gọi phi thực tế, các tổ chức chống phá Việt Nam như RSF, CPJ… được dịp “lên đồng” với các tuyên bố, thông cáo cố tình xuyên tạc sự thật, chỉ trích, miệt thị nền tư pháp, chỉ trích Đảng, Nhà nước Việt Nam dưới chiêu bài nhân quyền, tự do báo chí, tự do ngôn luận. Hành động này cũng thể hiện tương tự như tại phiên toà sơ thẩm hồi năm ngoái, dù nội dung, bản chất vụ án đã được thể hiện rất rõ và thông tin cụ thể trên các phương tiện truyền thông.

Đây là vụ án xét xử công khai, hoàn toàn không có gì “mập mờ” hay “tuỳ tiện” như những phán xét nói trên. Việc xét xử phúc thẩm là dựa trên kháng cáo của bị cáo và TAND cấp cao tại Hà Nội đã mở thủ tục phiên toà theo đúng trình tự pháp luật tố tụng hình sự. Cáo trạng tại phiên phúc thẩm một lần nữa nêu rõ, trong khoảng thời gian từ ngày 16/11/2017 đến 5/12/2018, bị cáo Phạm Thị Đoan Trang có hành vi làm, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, bài viết có nội dung nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Ngoài ra, bị cáo Đoan Trang còn trả lời phỏng vấn trên truyền thông nước ngoài với nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân. Cụ thể, Phạm Thị Đoan Trang có hành vi tàng trữ các tài liệu: “Báo cáo tóm tắt về thảm họa môi trường biển Việt Nam”; “Đánh giá chung về tình hình nhân quyền tại Việt Nam”; “Báo cáo đánh giá về luật tôn giáo và tín ngưỡng năm 2016 liên quan đến việc thực hiện quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng ở Việt Nam”. Cơ quan tố tụng xác định, các tài liệu trên có nội dung tuyên truyền, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân, tuyên truyền thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Vào giữa tháng 12/2021, TAND thành phố Hà Nội đã xét xử sơ thẩm vụ án và tuyên án phạt 9 năm tù đối với bị cáo Phạm Thị Đoan Trang về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Cần thấy rằng, việc toà phúc thẩm có giảm nhẹ hình phạt hay không phải căn cứ hồ sơ, tài liệu, có tình tiết mới nào là căn cứ giảm nhẹ hình phạt hay thái độ của bị cáo có ăn năn, hối lỗi so phiên sơ thẩm? Tuy nhiên, diễn biến tại phiên toà cho thấy, dù cáo trạng đã nêu rõ tính chất, mức độ phạm tội, các căn cứ kết án, bị cáo Phạm Thị Đoan Trang vẫn giữ thái độ như trước đó, tiếp tục cho rằng mình không phạm tội và kêu oan. Khi được HĐXX giải thích, bị cáo Phạm Thị Đoan Trang không thành khẩn khai báo, có thái độ chống đối tại phiên tòa. Trong khi đó, trên cơ sở xét hỏi công khai tại phiên phúc thẩm, căn cứ lời khai, tài liệu, kết quả giám định, tòa phúc thẩm nhận định, đủ cơ sở để kết luận hành vi phạm tội của bị cáo. Toà phúc thẩm đánh giá, việc tòa sơ thẩm tuyên án phạt 9 năm tù đối với bị cáo Phạm Thị Đoan Trang về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” là đúng người, đúng tội, không oan, hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội. HĐXX xác định hành vi của bị cáo Phạm Thị Đoan Trang là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý xâm phạm chế độ và Nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa, xã hội, xâm phạm đến sự vững mạnh của chính quyền nhân dân. Bản thân bị cáo là người có trình độ nhận thức nhất định. Bị cáo hiểu và biết rõ hậu quả hành vi vi phạm của mình nhưng vẫn tích cực thực hiện trong một thời gian dài, do vậy cần phải xử phạt nghiêm minh. Vì vậy, toà phúc thẩm tuyên y án 9 năm tù đối với bị cáo.

Rõ ràng, khi không có tình tiết nào làm thay đổi tính chất vụ án, bị cáo là người có nhận thức, hiểu hành động mình làm nhưng vẫn quanh co chối tội và có thái độ chống đối thì không có căn cứ nào để giảm nhẹ hình phạt. Căn cứ quan trọng nhất là thái độ thì đến phiên phúc thẩm, bị cáo vẫn không có dấu hiệu nào cho thấy sự hối lỗi, ăn năn về hành vi phạm tội của mình thì HĐXX lấy cơ sở nào để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo so bản án sơ thẩm. Rõ ràng, chính bị cáo đã tự tước lấy cơ hội giảm nhẹ hình phạt với thái độ ngoan cố của mình. Bị cáo hay nếu ai đó còn suy nghĩ chờ đợi những tung hô, kêu gọi của các tổ chức, cá nhân bên ngoài để được giảm án, xoá án hay để thành “thần tượng”, thành tâm điểm của sự chú ý nào đó thì đây là lúc họ cần nghĩ lại, nhìn nhận lại.

“Đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”, luật pháp nghiêm khắc nhưng cũng nhân văn, khoan hồng với những ai biết lỗi lầm mà ăn năn sám hối, điều đó tùy thuộc ý thức và hành động của chính mình chứ không phải ở sự tung hô nào khác.

(Nguồn: Nguyễn Thành, Báo Công an nhân dân điện tử)

 

Aug 30, 2022

Đấu tranh chống sự phá hoại, xuyên tạc lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

           Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện từ mùa xuân năm 1930 và đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, nhờ đó đất nước Việt Nam “có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Hiện thực lịch sử vẻ vang đó được toàn dân tộc thừa nhận, tự hào và bạn bè quốc tế khâm phục, quý trọng. Đó là sự thật, không ai có thể phủ nhận. Nhưng vẫn có những thế lực thù địch, phản động ở trong nước và ở nước ngoài cố tình xuyên tạc lịch sử Đảng hòng hạ thấp và chống phá sự lãnh đạo của Đảng.

1. Có một số thế lực cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và tầm vóc, giá trị lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Họ coi đó chỉ là sự “ăn may” của cộng sản, Việt Minh. Thực tế lịch sử đã khẳng định Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng diễn ra liên tục suốt 15 năm với sự lãnh đạo của Đảng từ cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, phong trào dân chủ 1936 - 1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Trong phong trào giải phóng dân tộc, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã phát triển, hoàn thiện đường lối, đặt mục tiêu giành độc lập dân tộc lên hàng đầu; xây dựng lực lượng chính trị rộng lớn, đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh; xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng rộng khắp trên cả nước; xác định phương pháp đấu tranh đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành độc lập và chính quyền; dự báo và nắm bắt thời cơ cách mạng. Đó là những điều căn bản và quyết định thắng lợi của cách mạng.

Điểm nổi bật có giá trị lý luận và thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám là Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xử lý đúng đắn vấn đề tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ. Thời cơ bảo đảm cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi là: Cao trào cách mạng của nhân dân cả nước phát triển mạnh mẽ (Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 09/3/1945); kẻ địch lâm vào khủng hoảng, hoang mang, mất sức chiến đấu (Pháp chạy, Nhật hàng Đồng minh); các tổ chức đảng và Việt Minh đủ mạnh trên cả nước, quyết tâm lãnh đạo đưa quần chúng vào hành động cách mạng. Cùng với nắm bắt thời cơ, Đảng đã chỉ rõ nguy cơ: Quân Đồng minh (Anh và Trung Hoa dân quốc) kéo vào giải giáp quân Nhật và lợi dụng danh nghĩa đó để xâm chiếm Việt Nam; lợi dụng sự thất bại của Nhật, quân Pháp quay lại áp đặt sự cai trị như trước ngày 09/3/1945. Đảng đã lãnh đạo cách mạng thắng lợi trước khi quân Đồng minh vào và trước khi quân Pháp quay lại.

Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, Tuyên Quang từ ngày 14 đến 15/8/1945 quyết định tổng khởi nghĩa với nguyên tắc chỉ đạo: Tập trung, thống nhất, kịp thời và nhanh chóng giành thắng lợi trong nửa cuối tháng 8-1945. Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã xóa bỏ chế độ thuộc địa gần một thế kỷ và chế độ quân chủ phong kiến hàng nghìn năm, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do với bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1945 - 1954) do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là cuộc kháng chiến thần thánh với những chiến công vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”. Bạn bè quốc tế nhắc đến Điện Biên Phủ gắn liền với Việt Nam-Hồ Chí Minh-Võ Nguyên Giáp. Vậy mà đến nay vẫn có thế lực cố tình xuyên tạc. Họ cho rằng có thể tránh được cuộc chiến tranh “nếu phía Việt Nam không hiếu chiến”.

Sự thật đã bác bỏ quan điểm sai trái đó. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”. Lập trường hòa bình và sự nhân nhượng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa rất rõ ràng. Khi kháng chiến diễn ra ở Nam Bộ, ngày 06/3/1946, Hồ Chí Minh đã ký với J.Sainteny, Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Hà Nội bản Hiệp định Sơ bộ cho phép 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân đội Trung Hoa dân quốc; Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do có Chính phủ, Nghị viện, quân đội và tài chính riêng trong liên bang Đông Dương và thuộc khối liên hiệp Pháp. Đó là sự nhân nhượng rất lớn nhưng cần thiết mặc dù Pháp chưa công nhận Việt Nam độc lập và còn phải ở trong khối liên hiệp Pháp. Nhân nhượng đó thể hiện mong muốn hòa bình và quan hệ thân thiện với nước Pháp. Để thúc đẩy quá trình đó, ngày 25/4/1946, đoàn Quốc hội Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu thăm nước Pháp. Ngày 31/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Hà Nội thăm chính thức nước Pháp với mong muốn hòa bình và hợp tác giữa hai nước. Ngày 06/7/1946, cuộc đàm phán Việt-Pháp bắt đầu ở Fontainebleau (Pháp). Do phía Pháp không thành thật muốn đàm phán nên giải pháp hòa bình không thành. Trước khi trở về nước ngày 14/9/1946, Hồ Chí Minh ký bản Tạm ước với Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Moutet nhân nhượng một số quyền lợi của Pháp ở Việt Nam. Ngày 18/10/1946, về đến cảng Cam Ranh, Hồ Chí Minh gặp Cao ủy Pháp D’Argenlieu trao đổi về thực hiện Tạm ước 14/9.

Sau khi ra miền Bắc, quân đội Pháp liên tiếp gây hấn, vi phạm Hiệp định Sơ bộ 06/3. Ngày 20/11/1946, Valluy, Quyền Cao ủy Pháp, ra lệnh cho quân Pháp tấn công Hải Phòng. Ở Hà Nội, quân Pháp trắng trợn dùng vũ lực và đòi kiểm soát thành phố. Trước hành động chiến tranh của Pháp, dân tộc Việt Nam buộc phải chiến đấu bảo vệ nền độc lập non trẻ. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội Pháp mong muốn chấm dứt chiến sự, nối lại đàm phán nhưng phía Pháp không đáp lại. Bàn tay hòa bình của Việt Nam đưa ra nhưng phía Pháp đã không đáp lại bằng thái độ hòa bình. Chính phủ Pháp đã lao sâu vào cuộc chiến tranh mà chính người Pháp gọi là chiến tranh phi nghĩa, “chiến tranh bẩn thỉu” để cuối cùng nhận lấy thất bại đau đớn.

3. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) phải vượt qua nhiều gian khổ, hy sinh mới đi đến Ngày toàn thắng 30/4/1975, thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc. Chính giới Hoa Kỳ và các tướng lĩnh Mỹ thừa nhận hành vi chiến tranh của họ ở Việt Nam, những bài học và nguyên nhân thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Nhiều cựu binh Mỹ đã trở lại Việt Nam có lời sám hối về cuộc chiến tranh phi nghĩa của Chính phủ Mỹ và những tội ác do họ gây ra, mong muốn được góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh, nhất là sự tàn phá của chất độc da cam/dioxin. Vậy mà vẫn có những tiếng nói lạc lõng, trắng trợn, coi chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là cuộc “nội chiến” giữa phe cộng sản và phe quốc gia. Đó là sự xuyên tạc lố bịch nhất.

Năm 1950 mở đầu sự can thiệp của Mỹ khi tàu chiến Mỹ đến cảng Sài Gòn và ngày 19/3/1950, 30 vạn nhân dân Sài Gòn biểu tình chống Mỹ can thiệp. Sau thảm bại của Pháp ở Điện Biên Phủ (07/5/1954), tháng 6-1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng trong Chính phủ Bảo Đại do Pháp dựng lên từ ngày 13/6/1949. Đó là sự chuẩn bị để Mỹ thay thế Pháp ở Việt Nam. Sau Hiệp định Geneva được ký kết (tháng 7-1954), Việt Nam tạm chia làm hai miền với Vĩ tuyến 17. Ở miền Nam, Mỹ chính thức thay chân Pháp khi quân Pháp rút hết về nước (28/4/1956). Mỹ dựng lên chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, từ chối hiệp thương với miền Bắc để tổng tuyển cử thống nhất đất nước như quy định của Hiệp định Geneva, mưu toan chia cắt lâu dài nước Việt Nam.

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Mỹ dựng lên là bất hợp pháp, giả hiệu; là phản dân, hại nước. Ngụy là giả. Vì vậy, chính quyền và quân đội do Mỹ xây dựng được gọi là ngụy quyền, ngụy quân. Họ không đại diện cho quốc gia, dân tộc dù họ tự gọi mình là “chính phủ quốc gia”, “chính nghĩa quốc gia”. Ngày 13/5/1957, tại Mỹ, Ngô Đình Diệm trắng trợn tuyên bố: “Biên giới của Hoa Kỳ kéo dài đến Vĩ tuyến 17”. Lời tuyên bố đó và cả hành động thực tế đã cho thấy bản chất của một chính quyền tay sai, bán nước, công cụ chiến tranh của Mỹ, hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ suốt đến sau này. Khi chính quyền đó không đáp ứng được lợi ích của Mỹ thì Mỹ sẵn sàng gạt bỏ, “thay ngựa giữa dòng”. Cái chết bi thảm của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu trong cuộc đảo chính ngày 01/11/1963 đã chứng tỏ điều đó.

Mỹ đã lần lượt thất bại trong mô hình thực dân mới ở miền Nam Việt Nam; trong “Chiến tranh đặc biệt” 1961 - 1964, “Chiến tranh cục bộ” 1965-1968 và “Việt Nam hóa chiến tranh” 1969 - 1975. Có những hành động chiến tranh vô cùng tàn bạo của Mỹ như rải chất độc hóa học hủy diệt sự sống ở miền Nam (10/8/1961); ném bom miền Bắc từ ngày 05/8/1964; ồ ạt đưa quân Mỹ tham chiến ở miền Nam (08/3/1965); sử dụng lượng vũ khí lớn ở Thành cổ Quảng Trị; ném bom hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972. Cuối cùng, quân Mỹ đã thất bại, chấp nhận ký Hiệp định Paris (27/01/1973), rút hết quân Mỹ về nước. Cách mạng Việt Nam phát triển, đánh sập ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

4. Vào những năm 1988 - 1991, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Do chủ nghĩa xét lại, cơ hội, sự suy thoái trong các Đảng Cộng sản cầm quyền và sự phản bội đã dẫn tới sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, phản động ở Việt Nam cho rằng Chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội đã thất bại. Họ coi việc truyền bá lý luận Mác - Lênin vào Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản, lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm. Họ đòi Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ sự lãnh đạo, thực hiện chế độ đa đảng và đa nguyên chính trị, xóa bỏ con đường xã hội chủ nghĩa.

Đảng đã tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ và kinh nghiệm thực tiễn, đề ra các nguyên tắc chỉ đạo đổi mới kiên định con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ dứt khoát lựa chọn từ năm 1930; trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Má - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, bác bỏ đa nguyên, đa đảng. Đảng đề ra “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (1991) và bổ sung, phát triển năm 2011. Nhờ vậy, công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế phát triển, chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, hội nhập quốc tế và đối ngoại ngày càng mở rộng, đời sống về mọi mặt của nhân dân không ngừng được nâng cao.

Việt Nam vẫn vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã công bố tác phẩm quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Đó là công trình tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới, làm sáng tỏ mục tiêu, mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, các giải pháp và quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với lý luận khoa học và thực tiễn Việt Nam, đóng góp vào kho tàng lý luận về chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là vì nhân dân, vì con người. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”.

Đất nước và dân tộc Việt Nam do Đảng lãnh đạo đang phát triển mạnh mẽ, vững chắc trên con đường đúng đắn dựa trên cơ sở khoa học và hiện thực. Mọi sự phá hoại, xuyên tạc lịch sử Đảng và sự lãnh đạo của Đảng không cản trở được khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất, hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam./.

(Nguồn: Hương Sen Việt)

Aug 26, 2022

Trả lời cho kẻ thiểu năng

          Tre Việt - Trong bài viết “Ai đang rẻ rúng Cộng sản” đăng trên trang facebook Chân Trời Mới Media, ngày 23/8 có đoạn: “… suốt gần trăm năm nay, chế độ Cộng sản đã làm mưa làm gió ở miền Bắc và gần nửa thế kỷ ở miền Nam sau nay, di họa, di chứng, di căn của nó cũng đã đầy đủ. Vậy người ta trông chờ gì và chính cái chế độ Cộng sản này trông chờ điều gì?”. Hãy cùng Tre Việt trả lời cho những kẻ thiểu năng nhưng có dã tâm xuyên tạc, chống phá chế độ.

      Việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối lãnh đạo cách mạng đúng đắn ngay từ đầu đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối trong gần 07 thập kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam mà nòng cốt là liên minh công nông đã đứng lên kháng chiến giành độc lập dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (ngày 02/9/1945) và hai cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp, thực dân Mỹ xâm lược thắng lợi hoàn thành cuộc cách mạng  đấu tranh giải phóng dân tộc. Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng đã lãnh đạo thực hiện thắng lợi các cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đặc biệt, Đảng đã khởi xướng, lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và thu được những thành tựu to lớn. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định. Trong giai đoạn cách mạng mới, với truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, quyết tâm, bản lĩnh, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta nhất định sẽ thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đưa cuộc sống của nhân dân ngày càng ấm no, tự do, hạnh phúc; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đây chính là mục tiêu mà Đảng Cộng sản Việt Nam luôn hướng tới, nhân dân Việt Nam đang trông chờ, mong đợi. Và điều trông chờ, mong đợi này là hoàn toàn có cơ sở để trở thành hiện thực, bởi nó phù hợp với quy luật vận động, phát triển các hình thái kinh tế - xã hội, là tất yếu khách quan. Như vậy, cả lịch sử và thực tiễn đều đã sáng tỏ, nhưng có những kẻ vẫn hoài nghi hỏi rằng:  “…, người ta trông chờ gì và chính cái chế độ Cộng sản này trông chờ điều gì?”. Phải chăng, chỉ có những kẻ thiểu năng trí tuệ mới không tự trả lời được.

Một thực tế hiển nhiên là, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm thấp, lại bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta phải vừa nghiên cứu, vận dụng, phát triển lý luận, vừa tổng kết thực tiễn phát triển đất nước để bổ sung, điều chỉnh chủ trương, đường lối lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước cho phù hợp, hiệu quả. Dĩ nhiên, lãnh đạo đất nước trong một số bối cảnh, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, Đảng ta khó tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm, nhất là hiện nay một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn đến vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Song, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đảng ta đã sớm nhận ra những khuyết điểm, sai lầm để đề ra những giải pháp khắc phục, như:tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, v.v. Nhờ đó, bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ, qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Vì thế, những kẻ cho rằng đó là “di họa, di chứng, di căn” của chế độ là không xác đáng, phiến diện, với dã tâm xấu./.

Bản án đối với Phạm Đoan Trang là đúng người, đúng tội

           Tre Việt - Ngày 25/8, Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vì có đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Thị Đoan Trang (sinh năm 1978, trú tại phường Cát Linh, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội) về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Kết quả  , cấp phúc thẩm Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội đã tuyên y án đối với Phạm Đoan Trang.

Lợi dụng việc này, trang facebook Đài Á Châu Tự Do (RFA), đăng bài: “Nhà báo Phạm Đoan Trang phủ nhận cáo buộc, bị tuyên y án chín năm tù”, rêu rao: “Thân chủ của họ là công dân có ý thức trách nhiệm trước xã hội và cộng đồng, một nhà báo chân chính, dấn thân muốn lên tiếng về những vấn đề về môi trường, bất công, nhân quyền, bảo vệ phẩm giá con người …  việc kết án của Toà án Nhân dân Thành phố Hà Nội trong phiên sơ thẩm là bất công và cần phải được xem xét để tuyên vô tội và trả tự do ngay tại toà... Nếu nỗ lực bào chữa của các luật sư để bào chữa cho bị cáo, sự lên tiếng của nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế chưa làm thay đổi được quan điểm của cơ quan nhà nước và cơ quan toà án thì các ông cứ kết án cô Phạm Đoan Trang nhưng lịch sử sẽ xóa án cho cô ấy”. Đây là luận điệu nố bịch nhằm bao che, cổ súy cho hành vi phạm tội cũng như những “chiến tích” chống phá chính quyền nhân dân của Phạm Đoan Trang; đồng thời, xuyên tạc bản án do Tòa án các cấp đã tuyên phạt đối với Phạm Đoan Trang.

Theo cáo trạng, trong khoảng thời gian từ ngày 16/11/2017 đến ngày 05/12/2018, bị cáo Phạm Đoan Trang có hành vi làm, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, bài viết có nội dung nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra, bị cáo Đoan Trang còn trả lời phỏng vấn trên truyền thông nước ngoài với nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân.

Cụ thể, bị cáo Đoan Trang có hành vi tàng trữ các tài liệu: “Báo cáo tóm tắt về thảm họa môi trường biển Việt Nam”; “Đánh giá chung về tình hình nhân quyền tại Việt Nam”; “Báo cáo đánh giá về luật tôn giáo và tín ngưỡng năm 2016 liên quan đến việc thực hiện quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng ở Việt Nam”. Cơ quan tố tụng xác định, các tài liệu trên có nội dung tuyên truyền, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân, tuyên truyền thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trước đó, tháng 12/2021, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã xét xử sơ thẩm vụ án và tuyên án phạt 09 năm tù đối với bị cáo Phạm Thị Đoan Trang về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điểm a, b, c, Khoản 1, Điều 88, Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Sau đó, bị cáo Trang có đơn kháng cáo. Tại phiên phúc thẩm, bị cáo Phạm Đoan Trang tiếp tục cho rằng mình không phạm tội và kêu oan.

Tuy nhiên, trên cơ sở xét hỏi công khai tại phiên phúc thẩm, căn cứ lời khai, tài liệu, kết quả giám định, Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định hành vi của bị cáo Phạm Đoan Trang là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý xâm phạm chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, xã hội, xâm phạm đến sự vững mạnh của chính quyền nhân dân. Bản thân bị cáo là người có trình độ nhận thức nhất định, bị cáo hiểu và biết rõ hậu quả hành vi vi phạm của mình, song vẫn tích cực thực hiện trong một thời gian dài nên cần phải xử phạt nghiêm minh. Tòa phúc thẩm nhận định, đủ cơ sở để kết luận hành vi phạm tội của bị cáo. Và Hội đồng xét xử phúc thẩm cho rằng Tòa sơ thẩm tuyên án phạt đối với bị cáo Phạm Đoan Trang là đúng người, đúng tội, không oan, hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật Việt Nam.

Việc kêu gọi Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức cho Phạm Đoan Trang của các tổ chức “nhân quyền” quốc tế, như: Theo dõi Nhân quyền (HRW), Ân xá Quốc tế (AI), Ủy ban Bảo vệ Ký giả (CPJ) và Văn bút Hoa Kỳ (PEN America) không chỉ là sự vô duyên đến nực cười, mà còn hoàn toàn vô ích. Bởi ai cũng biết: thực chất đây là một sự can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của Việt Nam. Hành động này cần bị đấu tranh, lên án, bác bỏ./.

Aug 23, 2022

Những luận điệu xuyên tạc kệch cỡm

           Để đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTN, TC), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo PCTN, TC tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (viết tắt là Ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC).

Đến nay, tất cả 63 tỉnh, thành phố đã thành lập Ban chỉ đạo PCTN, TC. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đang xuyên tạc trắng trợn chủ trương đúng đắn này. Chúng nhận định bừa rằng “việc thành lập càng nhiều ban bệ thì càng tham nhũng hơn, thêm một cấp là thêm tham nhũng…”. Thực tế đã cho thấy rõ những luận điệu trên của thế lực thù địch là hoàn toàn sai trái, kệch cỡm.

Xuyên tạc trắng trợn, bất chấp thực tế

Bất chấp hiệu quả của công tác đấu tranh PCTN, TC tại Việt Nam thời gian qua được nhân dân và cộng đồng quốc tế ghi nhận, các thế lực thù địch, phản động vẫn cố tình đăng tải, chia sẻ nhiều thông tin sai trái, xuyên tạc, suy diễn, quy chụp chủ trương của Đảng thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC. Đặc biệt, các tổ chức phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ; các hãng truyền thông nước ngoài và các chương trình có phát sóng bằng tiếng Việt như RFA, VOA, RFI, BBC,… tán phát nhiều bài viết, hình ảnh xuyên tạc, công kích, đả phá kịch liệt chủ trương thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC của Đảng, Nhà nước ta.

Đài Á Châu Tự Do (RFA), Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA)… đưa ra luận điệu: “Vì sao “lò” chống tham nhũng đang cháy mà hàng loạt cán bộ cao cấp vẫn không sợ?”. Những kẻ thiếu tử tế vu khống rằng, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực tại Việt Nam thực chất là việc các phe phái tranh quyền để triệt hạ nhau dưới vở kịch chống tham nhũng. Họ hồ đồ cho rằng, “trên thế giới này, không có quốc gia nào mà người dân lại phải còng lưng đóng thuế để nuôi nhiều cơ quan chống tham nhũng đến vậy”,… Hoặc “hơn 10 năm chống tham nhũng, càng chống thì càng tham nhũng, vụ sau lớn hơn vụ trước cả về số tiền của và quan chức với chức vụ cao hơn, diễn ra ở nhiều ngành, nhiều cấp…”. Cá biệt, có đối tượng còn đưa ra luận điệu xuyên tạc, suy diễn vô căn cứ rằng, chính quyền sinh ra tham nhũng rồi lại thành lập Ban chỉ đạo PCTN, TC thì chỉ để làm khổ người dân mà thôi; không cần thiết và tốn tiền, tốn của. Từ đó chúng hô hào, kêu gọi: Muốn chống tham nhũng thì phải thay đổi chế độ, phải “đa nguyên, đa đảng”, phải thực hiện cái gọi là “xã hội dân sự”, “tam quyền phân lập”, v.v.

Hiệu quả rõ ràng của cuộc đấu tranh PCTN, TC

Đầu tiên có thể thấy rõ ràng rằng, công tác PCTN, TC ở Việt Nam thời gian qua có nhiều bước đột phá mạnh mẽ, mang lại hiệu quả, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, cộng đồng quốc tế ghi nhận. Theo thông tin được công bố sau Phiên họp thứ 22 của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC, thời gian qua, nhiều chủ trương, chính sách lớn về xây dựng Đảng và PCTN, TC được ban hành tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán được đẩy mạnh. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm, cả cán bộ cấp cao, đương chức và nghỉ hưu bị xử lý nghiêm minh. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay đã thi hành kỷ luật cán bộ liên quan đến tham nhũng, tiêu cực ở các cấp, trong đó có 56 cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, có 10 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng.

Thời gian qua, Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC đã chỉ đạo triển khai khá toàn diện, đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp để xây dựng, hoàn thiện thể chế về PCTN, TC cả trong Đảng và Nhà nước. Từ nghiên cứu, ban hành mới đến rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số quy định của Đảng và các quy định của pháp luật còn bất cập hoặc chưa phù hợp với thực tiễn, để kịp thời bổ sung, điều chỉnh; từng bước hình thành khuôn khổ pháp lý vững chắc để cán bộ không thể tham nhũng, tiêu cực. Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC đã từng bước gắn kết đồng bộ giữa phòng, chống tham nhũng với phòng, chống tiêu cực. Nếu như ở các nước chỉ có quy định, chế tài xử lý các hành vi tham nhũng, thì tại Việt Nam hiện nay đã có cả quy định, chế tài xử lý các hành vi tiêu cực. Đó là một bước tiến vượt trội!

Từ đầu năm 2022 đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC đã ban hành gần 30 văn bản về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và PCTN, TC. Đặc biệt, việc ban hành Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 6/7/2022 của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm và Hướng dẫn số 25-HD/BCĐTW, ngày 01/8/2022 của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC hướng dẫn một số nội dung về công tác phòng, chống tiêu cực đã hình thành cơ chế đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực ngày càng đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ.

Trong 6 tháng đầu năm 2022, Quốc hội đã thông qua 06 dự án luật; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 44 nghị định, 15 quyết định; các bộ, ngành ban hành 216 thông tư, thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội, kịp thời thể chế hóa các đường lối, chủ trương của Đảng, góp phần phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực. Bên cạnh đó, Quốc hội, Chính phủ cũng đang chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến việc đấu thầu, đấu giá, quy hoạch, quản lý, sử dụng đất, tài sản công, tài chính công, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp,… theo đề xuất của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC.

Những luận điệu cho rằng chỉ có “đa nguyên, đa đảng”, “tam quyền phân lập” mới chống được tham nhũng thật nực cười. Bởi nếu chỉ đơn giản vậy, sao nhiều quốc gia được gọi là “đa nguyên, đa đảng”, “xã hội dân sự”, “tam quyền phân lập” mà tham nhũng vẫn tràn lan? Tại sao với chế độ một đảng lãnh đạo, Việt Nam vẫn đang thực hiện hiệu quả công tác PCTN, TC? Có thể thấy, thực tế kết quả công tác PCTN, TC tại Việt Nam thời gian qua đã khiến những luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch trở nên kệch cỡm.

Bảo đảm công tác đấu tranh PCTN, TC chặt chẽ, thông suốt 

Việc thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC là thực sự cần thiết, phù hợp với thực tiễn hiện nay. Việc làm này thể hiện rõ quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh PCTN, TC ở mọi cấp, mọi ngành, thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC được thành lập sẽ góp phần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương công tác PCTN, TC, thể hiện tinh thần “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”. Ban chỉ đạo cấp tỉnh là cánh tay nối dài của Ban chỉ đạo Trung ương nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm cho công tác đấu tranh PCTN, TC được liền mạch, chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; kịp thời giải quyết những vướng mắc, bức xúc của nhân dân về tham nhũng, tiêu cực và đưa công tác này tiến lên một bước mới.

Vì vậy, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng hơn nữa trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, kiều bào ta ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế về những thành tựu đạt được trong PCTN, TC ở Việt Nam; về sự cần thiết phải thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC, từ đó củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân. Cùng với đó, cần tỉnh táo nhận diện và bác bỏ các luận điệu sai trái của các thế lực phản động, thù địch, chống phá cách mạng Việt Nam.

PCTN, TC là cuộc đấu tranh lâu dài, gian nan, vất vả để chống “giặc nội xâm”. Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này, không được chủ quan, không nóng vội, không được thỏa mãn và né tránh, cầm chừng mà phải thật kiên trì, đấu tranh không ngừng, không nghỉ; vừa phải kiên quyết phát hiện, xử lý tham nhũng, vừa phải kiên trì giáo dục, quản lý, ngăn ngừa, răn đe, không để xảy ra tham nhũng; đồng thời phải cảnh giác, đấu tranh với những âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng đấu tranh PCTN, TC để kích động, chia rẽ, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta./.

          (Nguồn: Hương Sen Việt)

Aug 21, 2022

Việt Nam không đàn áp tôn giáo và lợi dụng tôn giáo

          Tre Việt - Trang facebook Việt Nam Thời Báo ngày 18/8 đăng bài “Một phép thử của nhà cầm quyền Việt Nam trên vấn đề trấn áp tôn giáo”. Bài viết có đoạn: “Từ khi cộng sản nắm quyền cai trị họ đã không ngừng tìm cách đàn áp, tiêu diệt các tôn giáo bằng mọi thủ đoạn”. Đây là những lời lẽ vu cáo về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, cần lên án, bác bỏ.

Chúng ta đều biết:, Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, sau khi giành được độc lập, trong phiên họp Chính phủ lâm thời đầu tiên (ngày 03/9/1945), một trong những vấn đề cấp bách được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra là thực hiện tự do tín ngưỡng, đoàn kết lương giáo. Trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (ngày 19/12/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam: Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc,…”. Khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm, đề ra các chính sách, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào theo tôn giáo được hoạt động, sinh hoạt, phát triển bình đẳng như mọi người dân khác theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Thống kê đến nay, Việt Nam có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận, cấp phép hoạt động với khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ, hàng trăm nghìn chức sắc, chức việc tôn giáo. Trên thực tế, ở Việt Nam các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, hoạt động đúng theo giáo lý, tôn chỉ, mục đích, làm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, các tín đồ. Đời sống sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trên cả nước ngày càng phát triển. Phần lớn các tín đồ, chức sắc, chức việc tôn giáo luônchấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, “sống tốt đời, đẹp đạo”, “phúc âm trong lòng dân tộc”, đóng góp tích cực vào việc xây dựng quê hương, đất nước. Chính vì thế, bài viết nêu rằng: “Từ khi cộng sản nắm quyền cai trị họ đã không ngừng tìm cách đàn áp, tiêu diệt các tôn giáo” là không có cơ sở, cố tình xuyên tạc, vu cáo tình hình tôn giáo ở Việt Nam với dã tâm xấu.

Thời gian qua, có một số đối tượng đã lợi dụng tự do tôn giáo, có những hành động, việc làm vi phạm pháp luật; tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ; chống đối chính quyền. Cá biệt có linh mục còn xúi giục, kích động giáo dân cản trở việc thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, chống đối chính quyền, ngăn cản con em giáo dân đến trường, không cho giáo dân treo cờ Tổ quốc, v.v. Những hành động, việc làm đó đã đi ngược lại giáo lý tôn giáo, tôn chỉ, mục đích hoạt động, xâm phạm lợi ích của quốc gia, dân tộc, vi phạm pháp luật. Chính vì thế, họ không xứng đáng với vị trí được giao đảm nhiệm và phải bị thay thế bằng những linh mục có đủ tâm, tầm, trí để quản lý, phụ trách các giáo xứ, giáo phận là điều đương nhiên. Thậm chí, họ còn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành động sai trái của mình. Chứ hoàn toàn không có chuyện tôn giáo nào thân chính phủ hơn tôn giáo nào và càng không có chuyện lợi dụng tôn giáo này để chia rẽ, đàn áp tôn giáo kia như bài viết cho rằng: “… đã sử dụng một số chức sắc trong giáo hội và tổ chức công giáo thân chính phủ để đàn áp các chức sắc, tu sĩ, giáo hội công giáo,…”. Mà thực chất, đây là âm mưu kích động, chia rẽ đoàn kết giữa các tôn giáo, cần phải vạch trần trước công luận./.      

 

Aug 16, 2022

Sự ngộ nhận, suy diễn lố bịch của Việt Tân

           Tre Việt - Trang facebook Việt Tân ngày 15/8 đăng status: “Mặc dù Ban Tuyên giáo bật hết công suất tuyên truyền về Việt Nam yên bình đáng sống, nhưng thực tế xã hội đầy rẫy mầm mống rối loạn! Văn hóa ứng xử giữa người với người nhiều lúc, nhiều nơi rất vô tình. Người ta dễ dàng xuống tay giết lẫn nhau chỉ vì những lý do nhỏ nhặt”.

Sự thật có phải như vậy?

Những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đề ra chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn để xây dựng, phát triển đất nước. Mọi công dân Việt Nam chân chính đều dễ dàng nhận thấy đất nước Việt Nam đang trên đà phát triển, đổi thay, khởi sắc; đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện; mọi ngườiđược tự do, được quan tâm, bảo đảm thực thi đầy đủ quyền con người theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Các tầng lớp nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước.

 Hình ảnh Thủ tướng Canada thoải mái
ngồi uống cafe trên vỉa hè TP. Hồ Chí Minh

Thực tế minh chứng, trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, yêu nước, thương nòi của dân tộc Việt Nam vẫn luôn tỏa sáng và phát huy, v.v. Điều đó đã phản ánh bức tranh toàn cảnh về một đất nước ổn định chính trị, yên bình, đáng sống, là sự thật không thể phủ nhận. Minh chứng rõ nhất: Việt Nam là đất nước được lựa chọn, tổ chức thành công cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần 2 (năm 2019), bảo đảm an toàn tuyệt đối, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Do đó, Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo tuyên truyền về đất nước Việt Nam yên bình, đáng sống là hoàn toàn xác đáng, chúng ta phải tuyên truyền để “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Tất nhiên, trong quá trình phát triển đất nước với một cộng đồng dân số gần trăm triệu người, nhất là trước những tác động tiêu cực của mạng xã hội, mặt trái nền kinh tế thị trường đã, đang làm nảy sinh suy nghĩ, hành động tiêu cực, bộc phát, vi phạm pháp luật của một số ít người thiếu bản lĩnh, côn đồ là khó tránh khỏi. Thực tế, thời gian gần đây, ở một số địa phương đã xảy ra những vụ án mạng xuất phát từ nguyên nhân nhỏ nhặt, hành động bộc phát. Song đáng tiếc một số tờ báo đã cùng đăng tải, thậm chí dựa vào đó giật tít, đưa thông tin giật gân, kích thích sự tò mò của công chúng để câu vew, câu like,… đã khiến cho vụ việc trở nên “nóng” hơn, phức tạp hơn. Tuy nhiên, xét về mặt xã hội thì đó chỉ là hiện tượng cá biệt, đơn lẻ trong xã hội rộng lớn. Đây cũng là vấn đề bình thường mà bất kỳ ở quốc gia nào cũng xảy ra. Đơn cử như Mỹ là nước mà lâu nay nhiều người (trong đó có Việt Tân) vẫn cho rằng là đất nước văn minh, tự do, dân chủ nhưng vẫn thường xảy ra những vụ xả súng kinh hoàng, khiến hàng chục thậm chí hàng trăm người thương vong.

Vì thế, việc Việt Tân chỉ dựa vào những vụ án đơn lẻ xảy ra trong xã hội rồi cho rằng: “xã hội đầy rẫy mầm mống rối loạn” là hoàn toàn không có cơ sở, thể hiện sự ngộ nhận, suy diễn hết sức “lố bịch”, hòng bôi nhọ bản chất xã hội Việt Nam. Việc này cần lên án, bác bỏ./.

Aug 15, 2022

Sự “tâm” tối và hồ đồ của Hạo Nhiên

        Tre Việt - Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có vai trò vô cùng quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Vấn đề trên được Đảng ta đặc biệt quan tâm, đề cập trên nhiều lĩnh vực. Không chỉ bằng lời nói, cả hệ thống chính trị nước ta đã và đang rất quyết liệt trong việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xây dựng các quy định để quản lý, xác minh tài sản, thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn; cơ chế khuyến khích và bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực; đổi mới chế độ tiền lương và các chính sách đãi ngộ cho cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, v.v. Đối với các vụ việc, vụ án, sau khi được làm rõ, các cơ quan chức năng đã kịp thời cung cấp thông tin cho báo chí và các cơ quan thông tin, truyền thông để phản ánh, đăng tải đến mọi người dân. Góp phần giáo dục, cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, ngăn chặn là chính. Quan điểm đó đã được tuyệt đại đa số người dân đồng tình, ủng hộ.

Vậy nhưng, vẫn các chiêu bài cũ rích, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội, bất mãn trong và ngoài nước lợi dụng công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta, với nhiều phương thức và thủ đoạn khác nhau, họ ra sức xuyên tạc, chống phá, hòng gây chia rẽ, phá hoại đoàn kết nội bộ, phá hoại công cuộc xây dựng đất nước và việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội của nước ta. Điển hình là, ngày 08/8, trang facebook Việt Nam Thời Báo đăng bài: “Nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam có thật sự đoàn kết?” của Hạo Nhiên, cho rằng: “Lúc này Đảng Cộng sản Việt Nam đang trong tình trạng chia rẽ, phân tán lớn nhất từ trước đến nay... Chiến dịch “đốt lò” của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng hiện nay khiến trong Đảng có thể đang hình thành nhiều phe nhóm có cùng lợi ích chung”. Từ đó, quy chụp: “cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng ta là “đấu đá nội bộ”, làm mất đoàn kết trong Đảng”(!).

Cần khách quan nhìn nhận rằng, tham nhũng, tiêu cực là một hiện tượng tồn tại mang tính tất yếu trong xã hội phân chia giai cấp và có nhà nước. Bản chất của tham nhũng gắn liền với quyền lực; người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để tham nhũng, thu về những lợi ích bất chính. Cho nên, tham nhũng là tác nhân độc hại; là trở ngại lớn đối với sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước ta; làm giảm niềm tin của quần chúng nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, Đảng và Nhà nước ta. Về lâu dài, điều này đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì thế, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là “chống giặc nội xâm”, vừa là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, vừa cơ bản, lâu dài. Trong bất cứ thời kỳ nào, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta cũng mang hai mục đích: vừa loại những “con sâu, mọt” ra khỏi bộ máy của Đảng, Nhà nước, vừa giữ ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta, đảm bảo sự thắng lợi của xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và sự trường tồn của chủ nghĩa xã hội.

Nhận rõ vai trò của công tác phòng, chống tham nhũng, nên công tác này đã được hiến định tại Khoản 2, Điều 8, Hiến pháp năm 2013: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải… kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Trên cơ sở đó, Nhà nước thể chế hóa Hiến pháp, các quan điểm, chủ trương của Đảng thành Luật Phòng, chống tham nhũng và các nghị định, thông tư,… tạo hành lang pháp lý vững chắc với các chế tài nghiêm khắc để “không thể tham nhũng”, cơ chế răn đe để “không giám tham nhũng”“không cần tham nhũng”. Với tinh thần không có “vùng cấm”, không có “ngoại lệ”, không có “đặc quyền” đối với bất kỳ ai, cho nên nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm đã bị xử lý.

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Việc xử lý nghiêm nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao sai phạm là điều không ai mong muốn, thậm chí rất đau xót, rất đau lòng, nhưng vì sự nghiệp chung, vì sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng, thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước và ý nguyện của nhân dân, chúng ta phải làm và kiên quyết làm”. Đồng chí cũng yêu cầu: “không phải cốt xử nhiều là tốt, mà phải làm sao để không phải xử, không để xảy ra mới là tốt”; xét xử không phải để dìm con người xuống tận bùn đen mà là xử đúng người, đúng tội. Trong 10 năm (2012 - 2022), cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý; trong đó, có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Chỉ tính riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến đầu năm 2022, đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 08 Ủy viên, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Qua công tác thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị xử lý trách nhiệm gần 44.700 tập thể, cá nhân sai phạm; kiến nghị thu hồi, xử lý tài chính hơn 975.000 tỉ đồng, gần 76.000 ha đất; chuyển cơ quan điều tra gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu tội phạm để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Kết quả trên đã củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đó chính là minh chứng khẳng định, những luận điệu mà Hạo Nhiên và Việt Nam Thời Báo rêu rao: đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên sai phạm là “đấu đá nội bộ”, “phe cánh”, làm nội bộ Đảng ta mất đoàn kết chỉ là sự xuyên tạc, lố bịch hết sức hồ đồ của người có “tâm” tối. Luận điệu suy diễn sai trái đó cần phải đấu tranh, bác bỏ./.

 

Aug 14, 2022

Nỗ lực trong phòng, chống mua bán người của Việt Nam là không thể xuyên tạc, phủ nhận

          Tre Việt - Mới đây, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố Báo cáo thường niên về tình hình buôn người trên thế giới (TIP) năm 2022. Theo đó, Việt Nam bị hạ xuống Nhóm 3 (nhóm không tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu của Đạo luật TVPA và không có nỗ lực để đáp ứng các tiêu chuẩn đó) vì họ cho rằng: “Việt Nam chưa hoàn toàn đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu về loại bỏ mua bán người và chưa có nỗ lực đáng kể trong phòng, chống mua bán người.

Vẫn như hằng năm, Hoa Kỳ tự xem mình là “chuẩn mực về nhân quyền” tự cho mình quyền đưa ra các phán xét về chính trị, kinh tế - xã hội các quốc gia, đặc biệt là chủ đề “nhân quyền”. Báo cáo năm 2022, họchỉ dựa vào các nguồn thông tin không chính thống, đưa ra nhiều đánh giá không phản ánh khách quan, chính xác về tình hình và những nỗ lực phòng, chống mua bán người của Việt Nam. Thực tế, việc phòng chống mua bán người ở Việt Nam được Đảng, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và được tiến hành trên rất nhiều lĩnh vực, từ phòng ngừa, phát hiện, xử lý tội phạm cũng như hỗ trợ nạn nhân. Việt Nam cũng không ngừng hoàn thiện các văn bản pháp luật tạo cơ sở cho phòng, chống nạn mua bán người.  Chính phủ Việt Nam chủ trương thúc đẩy di cư hợp pháp, an toàn và trật tự, kiên quyết đấu tranh phòng chống di cư trái phép và mua bán người; đồng thời, đã ban hành, triển khai nhiều chính sách, pháp luật nhằm thực hiện chủ trương này.

Bộ đội Biên phòng tuyên truyền giúp người dân
cảnh giác trước nạn mua bán người

Nỗ lực nổi bật nhất của Việt Nam trong công tác phòng, chống mua bán người, là việc ban hành các văn bản chính sách, pháp luật liên quan đến công tác này. Ngày 15/3/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP quy định trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội quy định nạn nhân bị mua bán là đối tượng cần bảo vệ khẩn cấp thuộc diện nhận chăm sóc, nuôi dưỡng tạm thời tại cộng đồng; ngày 24/6/2021, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 02/2021/TT-BLĐTBXH hướng dẫn một số điều của Nghị định số 20/2021/NĐ-CP về mức hỗ trợ dành cho nạn nhân đã được điều chỉnh (tăng số tiền ăn dành cho nạn nhân bị mua bán được chăm sóc, nuôi dưỡng tạm thời tại cộng đồng) nhằm hỗ trợ và tạo mọi điều kiện để đáp ứng nhu cầu của nạn nhân phù hợp với tình hình thực tiễn. Ngày 22/4/2021, Bộ Công an ban hành Thông tư số 43/2021/TT-BCA quy định trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện một số trình tự, thủ tục tố tụng hình sự thân thiện trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra vụ án xâm hại người dưới 18 tuổi, v.v.

Về ngăn chặn mua bán người trong lĩnh vực việc làm và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, cùng với việc ban hành Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020 (Luật số 69), trong năm 2021 và đầu năm 2022, một loạt văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban hành, như: Nghị định số 112/NĐ-CP, ngày 10/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật số 69, quy định doanh nghiệp dịch vụ bị thu hồi Giấy phép nếu lợi dụng hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài để mua bán người, bóc lột, cưỡng bức lao động. Các hành vi lợi dụng hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài để bóc lột, cưỡng bức lao động nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị xử phạt nghiêm theo quy định tại Nghị định 12/2022/NĐ-CP, ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Thông tư số 21/2021/TT-BLĐTBXH, ngày 15/12/2021 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng đã quy định cụ thể mức trần tiền dịch vụ thu từ người lao động đối với một số ngành, nghề, công việc cụ thể nhằm nghiêm cấm việc doanh nghiệp thu phí của người lao động trái quy định, trong đó một số ngành nghề tại từng thị trường không được phép thu tiền dịch vụ.

Ngoài ra, còn có một số văn bản quan trọng khác, như: Nghị quyết số 28/NQ-CP, ngày 03/3/2021 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030; Chương trình “Bảo vệ và hỗ trợ trẻ em tương tác lành mạnh, sáng tạo trên môi trường mạng giai đoạn 2021-2025” (Quyết định số 830/QĐ-TTg ngày 01/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ) nhằm chủ động phòng ngừa, phát hiện các hành vi xâm hại trẻ em trên môi trường mạng, xử lý các hành vi lợi dụng môi trường mạng thực hiện các hành vi bị nghiêm cấm đối với trẻ em dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật; Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 782/QĐ-TTg, ngày 27/5/2021 của Thủ tướng Chính phủ), trong đó một trong những nhiệm vụ, giải pháp của Chương trình là phòng, chống tội phạm mua bán trẻ em vì mục đích bóc lột sức lao động.

Đặc biệt, ngày 18/7/2022 vừa qua, hướng tới Ngày Thế giới và Toàn dân phòng chống mua bán người 30/7, các Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Quốc phòng, Công an, Ngoại giao đã ký Quy chế phối hợp trong công tác tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán. Đây là một dấu mốc quan trọng,  khẳng định sự nỗ lực và quyết tâm trong công tác phòng, chống mua bán người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân bị mua bán, khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn phối hợp triển khai việc tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân. Việc ban hành Quy chế đã truyền đi thông điệp mạnh mẽ cam kết của Việt Nam trong việc nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác phòng, chống mua bán người.

Các khuyến nghị của phía nước ngoài liên quan đến phòng, chống mua bán người cũng được Việt Nam quan tâm, xem xét một cách kỹ lưỡng, thấu đáo. Nhiều nội dung khuyến nghị đã đưa được vào Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030.

Về hợp tác quốc tế, Việt Nam đã và đang triển khai thực hiện hiệu quả các điều ước quốc tế, cam kết quốc tế về hợp tác phòng, chống mua bán người. Trong thời gian gần đây, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã tăng cường hợp tác với phía nước ngoài trong việc xác minh, xác định bảo vệ nạn nhân bị mua bán. Bộ Ngoại giao đã kịp thời chỉ đạo Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài theo dõi sát tình hình công dân Việt Nam tại địa bàn, kịp thời phát hiện các xu hướng mua bán người và các vấn đề liên quan đến công dân để có biện pháp xử lý nhanh chóng, nhất là trong việc giải cứu, bảo vệ nạn nhân, qua đó hỗ trợ công tác truy tố, xét xử ở trong nước. Gần đây nhất, cuối tháng 6 đầu tháng 7/2022, Bộ Ngoại giao đã phối hợp với Bộ Quốc phòng giải cứu, đưa về nước an toàn 07 công dân bị mua, bán sang Campuchia. Đồng thời, xử lý đối tượng vi phạm nhằm góp phần giải quyết triệt để tình trạng: người Việt Nam bị đưa sang Campuchia lao động cưỡng bức hiện đang nổi lên và trở thành vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền của con người.

Tất nhiên, không phủ nhận rằng, Việt Nam vẫn đang trong tình trạng thiếu việc làm. Xuất phát từ nhu cầu nôn nóng muốn đi tìm việc ở nước ngoài mà có những người dân đã mắc lừa các tổ chức, cá nhân làm ăn phi pháp. Thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã xử lý rất nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến việc đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, v.v. Những nỗ lực của Việt Nam là không thể phủ nhận và càng không thể quy chụp Chính phủ Việt Nam “không có nỗ lực đáng kể” để cải thiện tình trạng mua bán người. Thiết nghĩ, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nên chấm dứt việc đưa ra những báo cáo về vấn đề “nhân quyền” thiếu khách quan, không đúng sự thật, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước; trong đó, có Việt Nam./.

Aug 12, 2022

RFA lại diễn trò “bóp méo, đánh tráo” bản chất

Tre Việt – Ngày 01/8 vừa qua, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ban hành Hướng dẫn số 25-HD/BCĐTW, hướng dẫn một số nội dung về công tác phòng chống tiêu cực đối với cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị. Lợi dụng vào đó, ngày 10/8, Đài Á Châu Tự do (RFA), đăng bài “19 hành vi cần phòng, chống đối với đảng viên: bổn cũ soạn lại”. Họ rêu rao: “Thực chất 19 điều này cũng chẳng có gì mới... đảng viên đã có 19 điều cấm làm, có nghị quyết của Đảng, có Điều lệ Đảng... nên 19 điều cấm này là chồng chéo”. Đây là luận điệu xuyên tạc để cố tình bóp méo, đánh tráo bản chất các vấn đề liên quan đến Hướng dẫn này.

        Theo Tre Việt, việc Hướng dẫn nêu 19 hành vi tiêu cực cần tập trung chỉ đạo phòng, chống là cần thiết. Bởi vì, cần phải nêu rõ những nội dung cụ thể để mọi cán bộ, đảng viên biết mà phòng tránh. Cụ thể là:  lợi dụng việc cưới, việc tang... để vụ lợi hoặc đem lại lợi ích riêng cho bản thân, gia đình; nói, viết, thực hiện không đúng chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nể nang, né tránh, ngại va chạm, im lặng, không đấu tranh hoặc phụ họa theo ý kiến, quan điểm sai trái, lệch lạc.
        Bao che, giấu giếm vi phạm, khuyết điểm của bản thân, người khác hoặc của tổ chức; thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; độc đoán, chuyên quyền; không chấp hành sự phân công của tổ chức, kén chọn chức danh, vị trí công tác,... cũng là hành vi tiêu cực.
        Hành vi tiêu cực còn là lợi dụng công việc có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác, công việc thuộc thẩm quyền giải quyết để trục lợi; cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng thông tin, tài liệu bí mật của Đảng, Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công bố; vu cáo, bịa đặt những nội dung liên quan đến vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực; tùy tiện quy kết về tội danh, mức án trước khi tòa án ra phán quyết.
      Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng hướng dẫn nhận diện tiêu cực qua các biểu hiện, như: người tư duy nhiệm kỳ, cơ hội, vụ lợi, lạm quyền, lộng quyền, chủ nghĩa cá nhân, đặt lợi ích cá nhân lên trên tập thể; bao che tham nhũng, tiêu cực; chạy chức, chạy quyền; kê khai tài sản không trung thực; nhập quốc tịch nước ngoài; tham gia hoặc tạo điều kiện cho việc rửa tiền, chuyển tiền, tài sản ra nước ngoài; mở tài khoản và mua bán tài sản ở nước ngoài trái quy định.
       Cùng với đó, Hướng dẫn số 25 tập trung làm rõ một số nội dung về công tác phòng, chống tiêu cực theo Quy định số 32-QĐ/TW, ngày 16/9/2021 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương; phạm vi, cơ chế phối hợp chỉ đạo xử lý vụ án, vụ việc tiêu cực, như:
        Ban Chỉ đạo Trung ương trực tiếp theo dõi, chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, liên quan đến nhiều bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; liên quan đến cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; cán bộ lãnh đạo, quản lý giữ chức vụ, chức danh tổng cục trưởng, phó tổng cục trưởng và tương đương.
        Các vụ việc tiêu cực liên quan đến cán bộ, đảng viên tuy không giữ chức vụ lãnh đạo quản lý, nhưng hành vi tiêu cực của cán bộ, đảng viên đó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng, Nhà nước, gây bức xúc trong dư luận xã hội; có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình tiến hành tố tụng có thể làm sai lệch kết quả điều tra, truy tố, xét xử vụ án, xử lý vụ việc; các vụ án tiêu cực đã có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng có khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, đề nghị xem xét lại, gây bức xúc trong dư luận xã hội cũng do Ban Chỉ đạo Trung ương trực tiếp theo dõi, chỉ đạo xử lý.
        Ban Nội chính Trung ương trực tiếp theo dõi, chỉ đạo xử lý vụ án, vụ việc tiêu cực do Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương, Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương giao.
Ngoài ra, Ban Nội chính Trung ương cũng trực tiếp theo dõi, chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp khác, dư luận xã hội quan tâm mà quá trình xử lý có khó khăn, vướng mắc kéo dài hoặc các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương và cấp ủy địa phương còn có quan điểm khác nhau hoặc các vụ án, vụ việc tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp khác mà Ban Nội chính Trung ương thấy cần thiết phải theo dõi, đôn đốc.
Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo dõi, chỉ đạo xử lý đối với các vụ án, vụ việc tiêu cực phức tạp, dư luận xã hội quan tâm xảy ra ở địa phương; liên quan đến cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy quản lý.
Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng có trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo xử lý đối với các vụ án, vụ việc tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm do Ban Chỉ đạo Trung ương, Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương giao hoặc được các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương đề nghị tỉnh ủy, thành ủy chỉ đạo xử lý.
Các vụ án, vụ việc tiêu cực khác dư luận xã hội quan tâm mà các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương còn có quan điểm khác nhau; các vụ án tiêu cực đã có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng có khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, đề nghị xem xét lại, dư luận xã hội quan tâm cũng sẽ do Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo dõi, chỉ đạo xử lý.
          Như vậy, việc Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ban hành Hướng dẫn số 25 là hết sức cần thiết, nhằm xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội; về kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt của người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương; kiên trì giáo dục, rèn luyện đức tính liêm khiết, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng, trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Đây là công việc nội bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam, sao RFA phải xuyên tạc./. 

Aug 11, 2022

Chăm sóc Người có công với cách mạng – Bản chất ưu việt của chế độ ta

            Từ trước đến nay, Đảng, Nhà nước ta luôn có những chủ trương, chính sách, hành động cụ thể, thiết thực để chăm sóc người có công đối với cách mạng. Điều đó khổng chỉ thể hiện đạo lý truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta, mà còn thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.

Ngay từ những năm đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mặc dù đất nước đang gặp muôn vàn khó khăn “ngàn cân treo sợi tóc” nhưng Đảng, Nhà nước ta vẫn đặc đặc biệt quan tâm chăm sóc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng (sau đây gọi chung là người có công với cách mạng).

Từ khi ngày 27/7 được xác định là Ngày Thương binh – Liệt sỹ (1947), hằng năm vào dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta đều gửi thư, quà thăm hỏi, động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sỹ để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.

Từ năm 1975 đến nay, khi đất nước độc lập, thống nhất, Đảng, Nhà nước ta càng quan tâm hơn đối với người có công cách mạng cả về chủ trương, chính sách lẫn hành động thực tiễn. Hiến pháp năm 1992 trang trọng ghi nhận: “Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và đời sống ổn định. Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc”. Nguyên tắc này đã được thể chế trong Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng năm 1994 và Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” năm 1994, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005 và các Nghị định của Chính phủ quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng,… Đặc biệt, năm 2020, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2021) với nhiều điểm mới, hướng tới nâng cao chế độ ưu đãi và mở rộng số người hưởng ưu đãi cho người có công với cách mạng nhằm tạo điều kiện để người có công nỗ lực vượt lên khó khăn, ổn định cuộc sống, đồng thời tạo môi trường thuận lợi để các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia tích cực vào công tác “Đền ơn đáp nghĩa”.

Từ chủ trương, đường lối, chính sách đó, Đảng, Nhà nước ta đã hiện thực hóa trong thực tế bằng các hoạt động, như: “Đền ơn, đáp nghĩa”, chăm sóc người có công đã thực sự trở thành phong trào rộng khắp, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc ở tất cả các cấp, các ngành, địa phương. Các chương trình lớn như “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, “Vườn cây tình nghĩa”, “Sổ tiết kiệm tình nghĩa”, “Nhà tình nghĩa”, “Phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng”, “chăm sóc bố, mẹ liệt sỹ già yếu cô đơn, con liệt sỹ mồ côi”,… đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, trở thành phong trào tự nguyện, tự tâm trong các tầng lớp nhân dân, thể hiện sự trân trọng, biết ơn đối với những người đã cống hiến, hy sinh vì độc lâp, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; góp phần ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với người có công cách mạng, tăng cường an sinh xã hội và “thế trận lòng dân” vững chắc.

Hiện nay cả nước có trên 9,2 triệu người có công cách mạng được hưởng các chế độ, chính sách ưu đãi. Hàng năm, Nhà nước dành hơn 32.000 tỉ đồng từ ngân sách để thực hiện chính sách ưu đãi người có công cách mạng. Tính trong giai đoạn từ năm 2017 – 2021, số xã, phường làm tốt công tác thương binh – liệt sỹ liên tục tăng dần từ 96,6% năm 2017 đến năm 2021 là 99%; chỉ tiêu mức sống của người có công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống của người dân nơi cư trú tăng dần từ 98% năm 1917 đến năm 2021 là 98,6%. Quỹ Đền ơn đáp nghĩa cả nước vận động được hơn 4.900 tỷ đồng. Phong trào tặng sổ tiết kiệm của cả nước đạt hơn 61.600 sổ với tổng kinh phí là hơn 113,7 tỷ đồng. Xây dựng mới hơn 36.400 nhà tình nghĩa, sửa chữa gần 24.000 nhà tình nghĩa trị giá gần 2.140 tỷ đồng. Phong trào nhận phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng được tiếp tục đẩy mạnh, góp phần tích cực chăm lo đời sống của các đối tượng và gia đình có công với cách mạng, tính đến tháng 12/2021 cả nước có 3.736/139.882 Bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống được các đơn vị nhận phụng dưỡng.

Hằng năm, vào những ngày tháng 7 thiêng liêng, trên cả nước từ miền xuôi đến miền ngược, từ nông thôn đến thành thị, từ các vùng sâu, vùng xa, bên giới, hải đảo người người đều thể hiện tình cảm thắm thiết của mình đối với người có công với cách mạng. Các đoàn cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân tổ chức các hoạt động về nguồn, thăm chiến trường xưa, thăm viếng nghĩa trang liệt sỹ, thành kính dâng hương tri ân các Anh hùng liệt sỹ.

Thế nhưng, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn, luôn tìm mọi thủ đoạn để xuyên tạc, phủ nhận điều đó với mục đích nhằm kích động, chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lợi dụng một số vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách ở một số ít địa phương, họ đưa ra các luận điệu, bài viết, video trắng trợn với nội dung cóp nhặt, lập lờ, đánh tráo giá trị, đổi trắng, thay đen, tạo ra sự hoài nghi, gây xáo trộn tư tưởng, niềm tin của nhân dân. Họ phủ nhận những cống hiến, hy sinh to lớn của người có công với cách mạng. Họ cho rằng nền kinh tế – xã hội đất nước chậm phát triển là do quá quan tâm đến người có công với cách mạng (?!). Đặc biệt nguy hiểm hơn, họ kêu gọi, dụ dỗ tập hợp những đối tượng bất mãn, cơ hội để lập ra các hội, nhóm cựu chiến binh, từ đó tuyên truyền, kích động, lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin tham gia, gây mất an ninh trật tự…

Những luận điệu và hành động đó là hoàn toàn bịa đặt, phi lịch sử, nhằm mục đích đen tối, làm suy giảm lòng tin của một bộ phận nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, làm xói mòn thuần phong, mỹ tục, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là điều không thể chấp nhận được, vì rằng tất cả những điều mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã làm là thể hiện tình cảm sâu nặng đối với người có công với cách mạng, đó là bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng./.

(Nguồn: Hương Sen Việt)