Sep 2, 2025

Cảnh giác với luận điệu xuyên tạc, chia rẽ mối quan hệ giữa Quân đội với Công an

         Thời gian gần đây, trên các trang mạng xã hội xuất hiện loạt bài viết “Phe Công an được nâng đỡ, phe Quân đội phản công?” của bút danh Minh Hải, đăng trên trang Saigonnhonew. Bài viết đã cố tình thổi phồng, bóp méo tình hình nội bộ của Đảng, đặc biệt là quan hệ giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân, cố ý dựng lên luận điệu sai trái rằng “Quân đội và Công an đang tranh giành quyền lực, ảnh hưởng” trước thềm Đại hội Đảng lần thứ XIV; có sự “đối đầu phe phái” giữa hai lực lượng; lãnh đạo cấp cao sử dụng quyền lực để “kiềm chế” hay “vượt mặt” lực lượng còn lại. Đây là những luận điệu nguy hiểm, nhằm chia rẽ khối đoàn kết trong nội bộ Đảng, phá hoại niềm tin của nhân dân với lực lượng vũ trang, và gián tiếp phục vụ âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Bộ đội Biên phòng phối hợp với các lực lượng Công an,
 dân quân địa phương tuần tra, bảo vệ chủ quyền
an ninh biên giới, biển, đảo

Thứ nhất, cần hết sức cảnh giác với dụng ý chính trị phía sau những luận điệu sai trái của Minh Hải. Bài viết của Minh Hải đã sử dụng cách lồng ghép, cắt xén, dẫn dắt thông tin mang tính ám chỉ, suy diễn vô căn cứ để khẳng định rằng: Quân đội và Công an “đấu đá” để giành ảnh hưởng chính trị. Một số lãnh đạo cấp cao “đưa ra tiêu chuẩn” hoặc “sắp xếp nhân sự” nhằm loại bỏ, kiềm chế lực lượng còn lại. Sự thay đổi nhân sự ở cấp cao là biểu hiện của đấu tranh quyền lực giữa hai “phe”.

Những lập luận này đều là sự xuyên tạc trắng trợn, bởi vì: công tác cán bộ trong Đảng được thực hiện chặt chẽ theo Điều lệ Đảng, Quy chế bầu cử trong Đảng, sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Không một cá nhân nào có thể tự ý quyết định nhân sự cấp cao theo ý chí chủ quan. Việc kiện toàn, bố trí nhân sự lực lượng Quân đội và Công an luôn nhằm mục tiêu chung là phục vụ lợi ích quốc gia, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân, chứ không vì lợi ích cục bộ hay “phe nhóm”. Dụng ý chính trị của những tài liệu kiểu này rất rõ: gây chia rẽ nội bộ, phá hoại niềm tin của nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng, kích động tâm lý nghi kỵ giữa hai lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc.

Thứ hai, đấu tranh bác bỏ luận điệu chia rẽ, gây mất đoàn kết nội bộ của các thế lực phản động, thù địch. Trong suốt chiều dài cách mạng Việt Nam, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân luôn là “thanh bảo kiếm” của Đảng, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Hai lực lượng này được sinh ra từ nhân dân, vì nhân dân, và cùng chung mục tiêu: bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Quân đội và Công an luôn phối hợp chặt chẽ, vừa bảo vệ hậu phương, vừa chiến đấu ở tiền tuyến. Những chiến thắng lịch sử như Điện Biên Phủ (1954), Đại thắng Mùa Xuân (1975) đều có dấu ấn phối hợp của cả hai lực lượng. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Quân đội và Công an tiếp tục phối hợp bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo, đấu tranh phòng chống tội phạm, khủng bố, bảo vệ an ninh mạng, an ninh kinh tế, v.v. Những dẫn chứng này khẳng định rằng không tồn tại và không thể tồn tại “đối đầu phe phái” giữa Quân đội và Công an, vì bất cứ sự rạn nứt nào đều trực tiếp gây nguy hại đến lợi ích dân tộc - điều mà cả hai lực lượng tuyệt đối tránh.

Thực tế hiện nay, Quân đội và Công an đang triển khai nhiều cơ chế phối hợp rất hiệu quả, như trong bảo vệ an ninh biên giới, biển đảo: Quân đội đảm nhiệm bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc phòng trên biển, trên bộ; Công an phối hợp đấu tranh chống buôn lậu, tội phạm ma túy, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Trong phòng chống tội phạm công nghệ cao: Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ cao (Bộ Công an) phối hợp với Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng (Bộ Quốc phòng) bảo vệ an ninh mạng quốc gia. Trong ứng phó thảm họa, cứu hộ, cứu nạn: Cả hai lực lượng cùng tham gia, như trong các đợt lũ lụt miền Trung, dịch Covid-19, sự cố thiên tai ở miền núi phía Bắc… Những kết quả phối hợp này cho thấy sự gắn bó chiến lược, tương hỗ lẫn nhau chứ không hề có mâu thuẫn quyền lực như bài viết xuyên tạc.

Tóm lại, bài viết của Minh Hải cố tình xuyên tạc về “mâu thuẫn, tranh giành quyền lực” giữa Quân đội và Công an là sự suy diễn chủ quan, không có căn cứ thực tiễn, đi ngược lại lịch sử đoàn kết, phối hợp của hai lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Nhân dân và cán bộ, chiến sĩ cần tỉnh táo nhận diện, kiên quyết bác bỏ những luận điệu sai trái này; đồng thời tiếp tục củng cố khối đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam mãi mãi là hai cánh tay thép của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, không kẻ thù nào có thể chia rẽ.

 (Trích nguồn: nhanvanviet.com)

 

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 - Sự thật lịch sử không thể xuyên tạc

        Trên trang mạng “Viettin”, bài viết của bút danh “BT” đã trắng trợn xuyên tạc bản chất lịch sử và nội dung của Tuyên ngôn Độc lập, với luận điệu ngụy biện rằng: “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp” và “Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay, đánh đổ chế độ quân chủ lập nên chế độ cộng hòa”. Theo tôi, đó là những điều không hoàn toàn thật, mà là một nửa sự thật, không phải là thật”. Luận điệu này không chỉ xuyên tạc bản chất lịch sử, mà còn thể hiện rõ mưu đồ chính trị nhằm hạ thấp vai trò của cách mạng Việt Nam, của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh; xúc phạm nghiêm trọng đến sự hy sinh xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam đã chiến đấu để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc.

1. Một sự xuyên tạc có chủ đích nhằm đánh tráo lịch sử để phủ nhận chính nghĩa. Bài viết của “BT” là một điển hình của kiểu “xuyên tạc nửa vời”, tức là cắt xén sự thật, bóp méo hoàn cảnh lịch sử nhằm tạo ra ảo tưởng về “tính khách quan”. Như chúng ta đã biết, trtước khi quân Nhật đảo chính Pháp vào tháng 3/1945, Việt Nam đã nằm dưới ách thống trị của thực dân Pháp gần một thế kỷ. Nhật Bản xuất hiện tại Đông Dương từ năm 1940 sau khi đánh chiếm Đông Á, nhưng vẫn giữ nguyên bộ máy thống trị của Pháp, chỉ thay đổi sau cuộc đảo chính ngày 9/3/1945. Sự hiện diện của Nhật không hề “giải phóng Việt Nam”, mà là sự thay thế một chủ nghĩa thực dân bằng một chủ nghĩa phát xít, tàn bạo và man rợ hơn. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là sự lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật, mà còn là sự đoạn tuyệt toàn diện và vĩnh viễn với chủ nghĩa thực dân Pháp và chế độ phong kiến, đưa đất nước sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do và dân chủ nhân dân. Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 là kết tinh của cuộc cách mạng đó, đồng thời tuyên bố trước toàn thế giới về chủ quyền không thể tranh cãi của dân tộc Việt Nam.

2. Tuyên ngôn Độc lập - chân lý lịch sử và pháp lý của nhân dân Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam không chỉ là một văn kiện tuyên bố chấm dứt chế độ thuộc địa, mà còn là bản cáo trạng hùng hồn đối với cả chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phát xít. Bằng những lập luận sắc sảo, Hồ Chí Minh đã dẫn tuyên ngôn của Hoa Kỳ (1776) và Cách mạng Pháp (1791) để khẳng định chân lý phổ quát về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi dân tộc, từ đó dẫn đến tuyên bố dứt khoát: “Chúng tôi tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả những đặc quyền của Pháp ở Việt Nam”. Đây không phải là một tuyên bố hình thức, càng không phải là “một nửa sự thật” như kẻ bút danh “BT” vu cáo. Mà là tuyên ngôn chính trị, pháp lý của một quốc gia độc lập, có chủ quyền, được sinh ra từ chính sức mạnh quật khởi của Nhân dân, từ công cuộc giải phóng dân tộc vĩ đại dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cần nhấn mạnh rằng: sự sụp đổ của phát xít Nhật là hệ quả của chiến tranh thế giới, nhưng sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả trực tiếp của Cách mạng Tháng Tám, với hàng triệu Nhân dân nổi dậy giành chính quyền trên cả nước. Không có một đạo quân viễn chinh nào “trao trả” tự do cho Việt Nam. Chính Nhân dân ta đã tự đứng lên giành lấy nó; vì thế, mọi luận điệu phủ nhận thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 năm 1945, phủ nhận giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là xuyên tạc bản chất của lịch sử dân tộc Việt Nam.

3. Luận điệu trong bài viết là chiêu bài nguy hiểm của chiến tranh thông tin và chân lý không thể bị bóp méo. BT ngụy biện rằng: “một nửa sự thật không phải là sự thật”, nhưng chính Y mới là kẻ đang cố tình cắt bỏ nửa còn lại của sự thật để bóp méo toàn bộ chân lý lịch sử. Đây là một thủ đoạn tinh vi nhưng không mới, được các thế lực phản động, lưu vong thường xuyên sử dụng nhằm gieo rắc hoài nghi trong quần chúng, đặc biệt là giới trẻ, những người có thể chưa nắm đầy đủ kiến thức lịch sử để phân biệt đúng, sai. Bằng những luận điệu “trí thức giả hiệu”, BT giả vờ “phản biện”, nhưng thực chất là tuyên truyền tư tưởng phản động; qua đó, từng bước hạ thấp vai trò của Đảng, bôi nhọ lãnh tụ Hồ Chí Minh, và sâu xa hơn, phủ nhận tính chính danh của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là cuộc chiến tranh thông tin – tư tưởng nguy hiểm, âm thầm nhưng đầy độc hại, mà mỗi người dân yêu nước cần nhận diện, đấu tranh bác bỏ.

Thực tiễn lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh, chế độ thực dân, phong kiến đã bị nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh lật đổ hoàn toàn bằng sức mạnh cách mạng. Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là minh chứng bất diệt cho thắng lợi đó. Không có sự thật nào vững chắc hơn sự thật đã được lịch sử ghi nhận bằng xương máu. Và không có thế lực nào, dù xảo trá đến đâu, có thể bóp méo được sự thật ấy. Những kẻ nhân danh “phản biện” để xuyên tạc, bôi đen lịch sử, nhất định sẽ bị lột mặt nạ trước ánh sáng công lý và lương tri dân tộc. Những luận điệu xuyên tạc của BT không chỉ vô căn cứ mà còn thể hiện rõ bản chất phản động, phản lịch sử./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)