Dec 28, 2015

MINH TRIẾT THẾ SAO?

Tre Việt - Ngày 26-12-2015, Nguyễn Khắc Mai có bài viết: “Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam đối diện với Năm Chữ Chính” được một số trang mạng “lề trái” đăng tải. Đọc bài viết, thấy rõ ông ta dẫn ra những kiến thức làm ra vẻ mình là người am hiểu, nhưng thực chất chỉ là “thùng rỗng kêu to”. Tác giả Đông La trong bài viết: “Minh triết du côn” đã viết: “Nguyễn Khắc Mai là đương kim Giám đốc Trung tâm Minh Triết Việt Nam, một trung tâm ra đời năm 2008, thuộc Liên hiệp các hội KHKT,… Hai chữ minh triết tưởng dễ hiểu nhưng không ngờ giới “tinh hoa” nước mình cũng lại hiểu lung tung đến vậy”. Đông La dẫn ra quan niệm của một số tác giả và chỉ ra các quan niệm đó đúng sai như thế nào; trong đó, có quan niệm của Nguyễn Khắc Mai và kết luận: “Như vậy, Nguyễn Khắc Mai, một người chưa hiểu chính xác chữ minh triết, lại làm giám đốc một trung tâm minh triết, rồi bàn về minh triết e rằng sẽ có nhiều huyên thuyên”!
          Đúng vậy. Về tính chính danh của Đảng Cộng sản Nguyễn Khắc Mai viết: “Có rất nhiều sự rối loạn về chính danh của Đảng Cộng sản. Thứ nhất là danh xưng “Cộng sản” không phản ảnh đúng cái tên Kommunismus. Thuật ngữ này trong tiếng Đức, Anh, Pháp, Nga… đều được hiểu là chủ nghĩa cộng đồng. Chữ cộng sản, nhiều người cho là người Nhật dịch đầu tiên rồi truyền sang Tàu, vào Việt Nam khoảng đầu thế kỷ XX”. Về vấn đề này, trên trang http://cunom.blogspot.com/ có bài nguyễn-khắc-mai-bịa-đặt-về-chủ-nghĩa cộng sản đã viết: “Lần đầu tiên tôi được biết đến ông Nguyễn Khắc Mai là qua một bài viết có tên là “Minh Triết Các Mác hay những nghịch lý cộng sản”. Than ôi, đó là một bài viết đầy những dối trá, bịa đặt và xuyên tạc tư tưởng của Marx”; “Khái niệm minh triết của ông Nguyễn Khắc Mai là một thứ chủ nghĩa duy linh đội lốt khoa học, thế nên nó được học bằng thần hứng (trực cảm, tâm linh). Nói nôm na là người ta có thể sẽ gọi hồn ông Marx lên để học tư tưởng Marx cho nhanh”; “ông Nguyễn Khắc Mai bịa đặt hoàn toàn về từ “Kommunismus” [một từ tiếng Đức], nếu tra từ đó bằng tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Pháp hay bất cứ thứ tiếng nào, với bất cứ từ điển nào thì kết quả đều là khái niệm về “chủ nghĩa cộng sản”, nhấn mạnh đến yếu tố kinh tế. Khái niệm “chủ nghĩa cộng đồng” mà ông Nguyễn Khắc Mai cho là đúng thì trong tiếng Đức người ta dùng một từ khác để diễn đạt, đó là từ “Kommunalismus”. Các ngôn ngữ khác cũng có từ tương tự, “chủ nghĩa cộng đồng” là một khái niệm đề cập đến văn hóa và chủng tộc. Chả biết minh triết rồi sẽ đi đến đâu, nhưng “ngu” triết thì đã rất rõ ràng”.
Còn Lữ Phương trên vietstudies với bài MinhTrietTheNaySao? Khi thấy Nguyễn Khắc Mai viết: “Cái gọi là giá trị minh triết đầu tiên của C. Mác là sự thừa nhận không có chủ nghĩa cộng sản. Hai ông nhiều lần khẳng định điều này (xem Ăng ghen trả lời phỏng vấn của K. Heinzen, cũng như bài tựa tác phẩm Cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp)”, đã: “nhận ra những sai lầm không thể nào tưởng tượng nổi của một nhân vật “hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu Văn hóa Minh Triết”. Bởi theo Lữ Phương: “điều ông Mai gọi là “Ăng ghen trả lời phỏng vấn của K. Heinzen” thực sự là những lời luận chiến phê phán những nhận xét sai lầm của K. Heinzen về chủ nghĩa cộng sản của Marx: “Heinzen hình dung… Chủ nghĩa cộng sản không phải là một học thuyết mà là một phong trào đem vào thực hiện không phải từ những nguyên lý mà từ các sự kiện”; mà theo Ăng ghen: “Trong chừng mực là một lý thuyết, chủ nghĩa cộng sản là biểu hiện lý luận vị trí của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giữa tư bản và vô sản, là sự tổng kết những điều kiện cho sự giải phóng giai cấp vô sản”. Lữ Phương kết luận: “Tôi hết sức ngạc nhiên về thái độ quá dễ dãi (hoàn toàn thiếu thận trọng) trong cách đọc văn bản của ông Nguyễn Khắc Mai cũng như cách ông viện ra khái niệm gọi là “giá trị minh triết” để giải thích xuyên tạc tư tưởng của Marx”.
Nguyễn Khắc Mai còn nhắc lại cuốn sách Hồ Chí Minh sinh bình khảo (khảo cứu cuộc đời của Hồ Chí Minh)” của Hồ Tuấn Hùng (xưng là cháu nội của nhân vật trong sách) để đặt sự nghi ngờ Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không phải là một người(!). Ông Mai là cử nhân lịch sử, nghiên cứu về lịch sử mà còn đặt câu nghi vấn theo kiểu “ăn theo nói leo” không có sự tư duy chỉ biết nói theo như con vẹt là sao? Điều hiển nhiên như thế mà còn nghi ngờ. Ông quả là người hoang tưởng. Vết sẹo ở dáy tai của Hồ Chí Minh khi còn nhỏ đi câu cá bị lưỡi câu ngoắc phải, chị gái đến thăm những năm đầu Người làm Chủ tịch nước đã nhận ra và thốt lên: “đây rồi, đúng cậu ấy đây rồi” nói lên điều gì? Khi về thăm quê, Người cùng bạn bè thủa nhỏ ôn lại kỷ niệm chứng tỏ cái gì thưa ông? Ông đòi Đảng, Nhà nước phải làm rõ việc này, thì chỉ có những đứa trẻ thiểu năng mới tin tin đồn của trẻ trâu ông Mai ạ. Ông có phải là thiểu năng đâu, mà là giám đốc Trung tâm Minh Triết Việt cơ mà!? Lại lần nữa thấy rõ cái gọi là minh triết của ông nó như thế nào.
          Với minh triết của ông Nguyễn Khắc Mai như vậy, nên ông ta viết về Đảng: “Cho đến khi cùng đường thì phải “đổi mới”, thực chất là thực hiện dè dặt những hình thức và phương thức của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên do thực hiện những hình thức tư bản chủ nghĩa mà vẫn duy trì Marx – Lenin nên về cơ bản không thể thực hiện phương thức tư bản chủ nghĩa hiện đại, thành ra đã sản sinh một thứ chủ nghĩa tư bản vừa hoang dã vừa quái dị với những quan hệ xã hội rất phong kiến”. Điều đó chứng tỏ ông ta chưa nghiên cứu chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I. Lê-nin. Chính sách ấy đã thực hiện những hình thức kinh tế trung gian, với bước đi quá độ, nhằm bắc những “chiếc cầu nhỏ” để đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhờ thực hiện chính sách kinh tế mới mà Liên Xô đã vượt qua được những khó khăn chồng chất của những năm đầu mới giành được chính quyền, mặc dù khi đó bị 14 nước đế quốc bao vây. Không những thế, Liên Xô còn đánh bại phát xít Đức, cứu loài người khỏi hiểm họa diệt chủng của chủ nghĩa phát xít. Nước ta ngày nay đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên còn những mảng, những bộ phận chưa phải của chủ nghĩa xã hội, chưa có chủ nghĩa xã hội đích thực. Đảng, Nhà nước ta đang tiếp thu thành tựu của nhân loại để xây dựng đất nước. Đó là thành tựu về khoa học - công nghệ, về quản lý kinh tế và nguồn vốn thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thực chất là chấp nhận hình thức xuất khẩu tư bản. Vì thế, Nguyễn Khắc Mai cho rằng “thực chất là thực hiện dè dặt những hình thức và phương thức của chủ nghĩa tư bản”, chính là sự khôn khéo của giai cấp vô sản đã bắt giai cấp tư sản phải cày trên mảnh đất của mình, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước (bởi ở đó đã có ¾ là chủ nghĩa xã hội như V.I. Lê-nin nhận xét) để xây dựng đất nước theo yêu cầu của giai cấp vô sản.
Nguyễn Khắc Mai cho rằng: “Chỉ mỗi mình Đảng là đang hoạt động không có luật định. Vì thế tính chính thống của Đảng hiện nay là nửa vời”(!). Đảng là một tổ chức chính trị thuộc hệ thống chính trị. Vì vậy, Đảng cũng như các tổ chức chính trị khác của hệ thống chính trị phải chấp hành Hiến pháp và hệ thống pháp luật của đất nước, chẳng nhẽ ông không thấy sao? Không những thế, Đảng và mỗi đảng viên của Đảng còn phải chấp hành Điều lệ Đảng, đây cũng có thể coi là Luật Đảng; đồng thời, chấp hành những điều đảng viên không được làm theo Quy định 47-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Như vậy, những điều mà công dân khác làm được, nhưng là đảng viên của Đảng thì không được làm. Chẳng nhẽ đó không phải là luật sao mà ông nói Đảng “hoạt động không có luật”?

          

Nov 30, 2015

KHÔNG PHẢI CỨ ĐA ĐẢNG LÀ CÓ DÂN CHỦ HƠN

Tre Việt - Có ý kiến cho rằng, thực hiện đa đảng, có nhiều đảng cạnh tranh nhau thì sẽ dân chủ hơn, sẽ tốt hơn một đảng! Có đúng như vậy không? Câu trả lời là không. Hãy xem chính người Mỹ nói về nước Mỹ - một nước thực hiện chế độ đa đảng, thực chất là thế nào. Họ nói rằng, nước Mỹ là một nước “tự do”, người dân được tự do biểu tình, báo chí được tự do phanh phui những chuyện nhạy cảm, xuyên tạc, bôi xấu lẫn nhau vì sự cạnh tranh, hạ uy tín của đảng này với đảng phái kia, v.v. Nhưng điều đó không phải là bản chất thực sự của dân chủ, xin minh chứng bằng câu nói của giáo sư Paul Mishler, trường Đại học bang Indiana của Mỹ: “Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất học... đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra”; “Nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là đảng Cộng hòa hay Dân chủ”[1].
Như vậy, có thể rút ra một số vấn đề sau: thứ nhất, chế độ đa đảng của nước Mỹ “thực chất chỉ là một đảng”, là sự cầm quyền của đảng tư sản; thứ hai, dân chủ ở nước Mỹ là dân chủ tư sản, không phải là dân chủ của đa số, không thực hiện quyền lực thực sự thuộc về nhân dân; thứ ba, thực chất đa đảng đối lập trong xã hội tư bản chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư sản. Và, bất cứ một nền dân chủ nào, cũng đều nhằm đảm bảo sự thống trị của giai cấp thống trị, cầm quyền. Dân chủ không phụ thuộc vào cơ chế độc đảng hay đa đảng, mà nó phụ thuộc vào bản chất của đảng cầm quyền phục vụ cho giai cấp nào. Bản thân nền dân chủ tư sản, dù có được tô vẽ như thế nào chăng nữa, thì đó vẫn là nền dân chủ của giai cấp tư sản, nhằm bảo đảm sự thống trị, bóc lột của giai cấp tư sản đối với xã hội và lao động làm thuê. Trong các nước tư bản chủ nghĩa, dù tồn tại đa đảng và các đảng đối lập, nhưng vẫn định hình một đảng cầm quyền. Chính trường ở đó thường xuyên diễn ra các cuộc tranh giành quyền lực giữa các đảng chính trị tư sản. Họ chỉ đa nguyên, đa đảng trên hình thức, còn trên thực tế đều tỏ rõ sự nhất nguyên, bởi đảng chính trị tư sản nào cũng không bao giờ xa rời mục đích bảo vệ cho quyền thống trị và sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Ở các nước đó, chưa bao giờ có chuyện Đảng Cộng sản cầm quyền cả.
Không phải cứ đa nguyên, đa đảng là có thể xây dựng được xã hội dân chủ. Cũng không phải một đảng là trở ngại của sự phát triển dân chủ. Nêu lên quan điểm này người ta đã vô tình, hoặc cố ý không tính đến sự khác biệt bản chất giữa các đảng chính trị tư sản và cộng sản, giữa dân chủ tư sản và dân chủ XHCN. Với thực tiễn và đổi mới của Việt Nam, không ai có thể phủ nhận được những bước tiến rõ rệt về dân chủ mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được trong những năm qua, trong nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền, trong thực hành dân chủ, đặc biệt là sự thừa nhận của chính người dân, về những nỗ lực của chúng ta trong việc thực hiện tính công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, quản lý, trong tranh luận, thảo luận, trong bầu cử, trong cải cách hành chính và cải cách tư pháp, v.v. Thành tựu của đổi mới sở dĩ có được là nhờ lực đẩy của dân chủ hóa và chính dân chủ là một trong những thành tựu nổi bật của đổi mới. Cuộc thảo luận rộng rãi trong toàn dân đóng góp cho Văn kiện Đại hội XII của Đảng là một minh chứng rõ rệt cho sự quan tâm đầy trách nhiệm của người dân đối với Đảng và Nhà nước của mình, cũng như nhân dân đã tham gia vào công việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị. Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội kỳ họp cuối khóa XIII vừa bế mạc là một thí dụ khác. Đó là những bằng chứng nói lên sức sống của đời sống chính trị dân chủ ở nước ta. Bởi thế, chắc chắn là, đông đảo các tầng lớp nhân dân sẽ có tiếng nói phê phán với những hoạt động tuyên truyền, những lời kêu gọi đòi đa nguyên, đa đảng ở nước ta. Cuộc sống vốn tường minh và nhân dân vốn sáng suốt, công bằng, nhạy cảm đủ sức sàng lọc, phân định để làm rõ chân và giả, thiện chí xây dựng và những toan tính sai lầm, gây hại cho dân, cho nước. Nhân dân đón nhận và ủng hộ những gì công tâm, chính trực và chối từ những ngụy tạo, ác ý.
Tôn trọng sự thật và chân lý để hành động có trách nhiệm, đó là thái độ và sự lựa chọn của chúng ta. Trên tất cả các phương diện từ lý luận khoa học đến thực tiễn chính trị cũng như sự trong sáng đạo đức, những ai thiện tâm, thiện chí, vì Tổ quốc, dân tộc và nhân dân đều thấy rõ, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cầm quyền là một thực tế lịch sử, không gì có thể làm dao động lý trí và tình cảm của chúng ta. Điều 4 Hiến pháp 2013 đã khẳng định về vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng. Đó là ý chí của dân, nguyện vọng của dân, đạt được sự đồng thuận rất lớn của xã hội. Đảng ta trong nhận thức và đánh giá của dân, có đầy đủ tính chính đáng pháp lý và sự xứng đáng về phẩm giá và uy tín của một Đảng lãnh đạo và cầm quyền.
Đảng cần ra sức tự vượt lên những hạn chế và khiếm khuyết bằng cách tự đổi mới, tự chỉnh đốn để xứng đáng với trọng trách của mình và niềm tin của nhân dân. Đóng góp vào công việc hệ trọng này là hành động có trách nhiệm của mỗi đảng viên và mỗi người dân. Bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ, về thực chất là bảo vệ dân, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của dân, hiện tại cũng như lâu dài./.



[1] - Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 7 (106), 2009, tr. 87-89

Nov 17, 2015

CHỌN NHẦM MẶT ĐỂ GỬI VÀNG

       Tre Việt - “Những ai đã phản bội ông cha?” là bài viết của Nguyễn Đình Cống đăng trên Blog Bùi Văn Bổng, ngày 15/11/2015. Đọc bài viết thấy nuối tiếc vì khi đất nước có chiến tranh, nhân dân đã không tiêc tiền của cho Nguyễn Đình Cống đi học ở Liên Xô, mà giờ đây ông ta lại trở cờ. Thật là chọn nhầm mặt để gửi vàng. Thật tiếc lắm thay!
          Mở đầu bài viết, Nguyễn Đình Cống đặt vấn đề rất đúng rằng, “Ông cha của phần đông chúng ta đã theo Đảng Cộng sản, tôn sùng chủ nghĩa Mác – Lê-nin, làm cách mạng để giành độc lập, mang tự do, dân chủ, hạnh phúc cho nhân dân. Nhiều người đã hy sinh xương máu. Thế mà giờ đây có một số người phê phán và đòi từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, đòi xóa hoặc đổi tên Đảng Cộng sản. Những người như vậy liệu có phản bội lại sự hy sinh của thế hệ ông cha, liệu có vi phạm vào đạo lý “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”. Đó là vấn đề được nhiều bạn trẻ đặt ra yêu cầu giải đáp. Tôi viết để trả lời câu hỏi đó”. Nhưng rất tiếc ông ta lại trả lời sai. Trả lời của Nguyễn Đình Cống cho thấy chính ông chứ không phải ai khác đã phản bội ông cha. Tại sao lại nói vậy?
          Khi đất nước phải chống sự xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, Nguyễn Đình Cống được Đảng, Nhà nước gửi sang Liên Xô học tập, những mong ông mang kiến thức về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng giờ đây, ông lại viết kêu gọi lớp trẻ từ bỏ con đường ông cha đã chọn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông Cống cho rằng, chủ nghĩa Mác – Lê-nin là sai lầm (!). Xin thưa, ai cũng biết, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên hành trình đi tìm đường cứu nước theo lời kể của Người, khi được đọc Luận Cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của V. I. Lê-nin, Người đã sung sướng, ngồi một mình trong phòng mà đọc to lên, như nói trước đồng bào mình: Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là cái giải phóng chúng ta. Đó chính là con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người tin theo V. I. Lê-nin và đi theo Cách mạng Tháng Mười. Do vậy, phải thành lập ra Đảng để lãnh đạo cách mạng. Đảng muốn lãnh đạo cách mạng thì phải có lý luận cách mạng, phải có “chủ nghĩa làm nòng cốt” nếu không thì như “thuyền không có lái”, như “người đi trong đêm tối” - Nguyễn Ái Quốc khẳng định. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập Báo Thanh niên (21/6/1925) để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin về nước là vì thế. Cho nên, năm 1930 Đảng Cộng sản được thành lập. Điều đó chứng minh Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời từ ba thành tố: từ chủ nghĩ Mác – Lê-nin, từ phong trào công nhân và từ chủ nghĩa yêu nước. Đồng thời, bác bỏ ý kiến của ông Cống cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là từ chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải từ chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Ông Cống đã tuyệt đối hóa chủ nghĩa yêu nước mà bỏ qua hai thành tố kia cho thấy sự phiến diện với ý đồ không trong sáng của ông ta. Ai cũng biết, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX các cuộc vận động, phong trào, khởi nghĩa của nhân dân ta liên tục diễn ra với các phương án cứu nước khác nhau do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo nhưng đều thất bại. Chỉ đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời có đường lối, phương pháp, tổ chức đấu tranh đúng mới lãnh đạo nhân dân ta giành được thắng lợi. Vậy, chủ nghĩa Mác – Lê-nin lại sai sao ông Cống? Chỉ với chủ nghĩa yêu nước mà không có chủ nghĩa Mác – Lê-nin, nhân dân ta có giành được thắng lợi đâu, thưa ông!
Ông Cống đã đúng khi cho rằng: “Tiêu chuẩn để đánh giá một học thuyết chính trị là thực tế thu được khi áp dụng nó vào cuộc sống chứ không phải do suy luận”. Mắt ông để đâu? Đầu ốc ông đâu rồi? mà không thấy, khi áp dụng chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã mang lại kết quả to lớn thế nào. Nhắc ông rằng, nhân loại vừa kỷ niệm 70 năm Chiến thắng phát xít; trong đó nhân dân và Hồng quân Liên Xô đóng vai trò quyết định. Đấy là nhờ áp dụng chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Cũng áp dụng chủ nghĩa ấy mà bố mẹ ông, ông và con cái ông nữa không phải sống kiếp ngựa trâu đấy thôi. Về kinh tế, dù có xuyên tạc thế nào cũng không thể phủ nhận được thành quả của nhân dân Liên Xô trước đây, thành quả của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, đặc biệt là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới đến nay.
Ông Cống lại đúng nữa khi cho rằng: “Giá trị thực của học thuyết nằm ở bản chất của nó, được xây dựng nên từ những luận cứ và luận chứng đầy đủ, minh bạch, chính xác, trung thực”. Ông nói được học chủ nghĩa Mác – Lê-nin nhiều ở cả trong nước và ở Liên Xô nữa, vậy ông “quên” chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã kế thừa và phát triển từ Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị cổ điển Anh và Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp hay sao? Đó không phải là những “luận cứ”, “luận chứng” à? Ông Cống với lòng dạ không trong sáng đã đánh đồng chế độ cộng sản với chế độ diệt chủng ở Cam-pu-chia. Điều đó cho thấy ông nói học chủ nghĩa Mác – Lê-nin nhiều, mà ông chẳng hiểu gì cả. Thật phí công, tiếc cho tiền của, mồ hôi, công sức của nhân dân đã bỏ ra cho ông ăn học không chỉ trong nước mà còn ở Liên Xô nữa. Chính nhân dân mới là người nuối tiếc vì đã chọn nhầm mặt để gửi vàng.

 Ông hồ đồ kết luận: “những người phê phán và vận động từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin mới là người yêu nước, yêu dân thật sự” (!). Ông không thấy, không biết hay cố tình làm ngơ, nhà xuất bản ở Đức giữ bản quyền tác phẩm Tư bản của C. Mác đã phải tái bản nhiều lần để đáp ứng nhu cầu tìm đọc, nghiên cứu của chính các nhà tư sản. Vì qua tác phẩm đó của C. Mác các nhà tư sản tìm được câu trả lời, giúp sản xuất, kinh doanh của họ vượt qua được khủng hoảng kinh tế. Vậy mà ông kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Ông Cống đúng là người đã phản bội lại ông cha./.

Nov 13, 2015

Ý TƯỞNG NGÔNG CUỒNG

          Tre Việt - Lang thang trên mạng thấy: Cù Huy Hà Vũ ngông cuồng kêu gọi thực hiện “Cuộc cách mạng bất bạo động cho Việt Nam”. Chúng ta không ai lạ gì Cù Huy Hà Vũ. Hắn vi phạm pháp luật, bị tòa kết án 7 năm tù, rồi được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước. Ra tù, Vũ sang Mỹ tiếp tục phản bội Tổquốc. Hắn lên tiếng trình báo cho “đồng đảng” trên Đài BBC tiếng Việt bằng những lời nói sặc mùi chính trị: Chế độ chính trị ở Việt Nam rõ ràng là chế độ “độc tài - toàn trị”. Bởi vậy, một cuộc “cách mạng mới là cần thiết và cấp bách để cứu dân, cứu nước”!
         Trong lúc tình hình đất nước, khu vực và thế giới có những diễn biến phức tạp, nhiều nước lâm vào khủng hoảng chính trị, kinh tế, xung đột, chiến tranh, nhất là kinh tế nhiều nước suy thoái. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang nỗ lực phấn đấu để đưa nước nhà thoát khỏi tình trạng đó, thì Vũ lại là người làm phức tạp thêm tình hình, gây bất ổn chính trị ở trong nước, hòng lôi kéo các tổ chức phản động, các nước có mối thâm thù với Việt Nam vào cuộc. Nhưng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, sự cổ vũ, hưởng ứng nhiệt tình, triệu người như một của nhân dân, Việt Nam đã phát triển ngoạn mục, được thế giới đánh giá là “điểm sáng” về phát triển kinh tế. Ngân hàng thế giới (WB) đã dự báo nâng mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam lên mức 6,2 % năm 2015 và 6,3% năm 2016. Hãng tin Bloomberg của Mỹ, ngày 29-9-2015 cho rằng: “kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh vượt nhiều nước, sản phẩm quốc nội GDP của Việt Nam quý 3-2015 tăng 6,81% so với một năm trước, tựu trung 9 tháng qua tăng 6,5%”. Mạng tin châu Âu - Europe Presse Image, ngày 26-9-2015 nhận định: “Nhờ môi trường chính trị ổn định, Việt Nam đứng đầu các nền kinh tế về thu hút vốn đầu tư nước ngoài… từ nay đến năm 2050, Việt Nam sẽ nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Đây chính là những điều tích cực về mô hình một đảng” cầm quyền.
Chẳng lẽ tất cả những thành tựu ấy, sự thật ấy lại chứng tỏ chế độ một đảng lãnh đạo ở Việt Nam là “độc tài - toàn trị” tệ hại đến mức phải phát động “cách mạng bất bạo động” nhằm lật đổ Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam để “thiết lập nền dân chủ - đa đảng”? Thực tế cho thấy, ở Việt Nam không có cơ sở chính trị, xã hội và nhu cầu của đại đa số nhân dân về một “nền dân chủ - đa đảng” như mưu đồ của Vũ. Thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì tuyệt đại đa số nhân dân đều hiểu rằng: Bản chất cốt lõi nhất của dân chủ là bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; thể chế chính trị nào đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của đại đa số nhân dân, của dân tộc thì thể chế đó sẽ có sức sống lâu dài, mãnh liệt, không phụ thuộc vào một đảng hay đa đảng... Vấn đề quan trọng quyết định không phải là ở số lượng mà là ở chất lượng của đảng, tức là đảng đó là đảng của ai, được tổ chức, hoạt động như thế nào và vì lợi ích của ai, mối quan hệ với nhân dân như thế nào, phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân ra sao, có được đại đa số nhân dân ủng hộ hay không… Chế độ chính trị của Việt Nam là kết quả của tiến trình lịch sử cụ thể của Việt Nam, trong đó có sự ủng hộ, ủy nhiệm rộng rãi của nhân dân đối với vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn cuộc đấu tranh lâu dài giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đổi mới, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Như khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trả lời phỏng vấn báo chí trước chuyến thăm Nhật Bản trung tuần tháng 7-2015 vừa qua.
Đành rằng, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng mắc phải một số hạn chế, khuyết điểm, thậm chí sai lầm. Đó cũng là lẽ thường khó tránh khỏi. Cái chính là Đảng ta đã nhìn thấy, nhận ra và kiên quyết khắc phục, để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vì vậy, Tre Việt có lời khuyên Vũ, rằng: hãy đến thăm các nhà nghiên cứu của Viện Phát triển quốc tế thuộc Trường Đại học Ha-vớt (Hoa Kỳ) và xin được tiếp xúc với công trình mà họ cùng Cơ quan Phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) nghiên cứu, xem họ đã rút ra kết luận gi? Có phải: “Ở Việt Nam, trong tương lai khó có thể hình dung cơ sở xã hội cho việc xây dựng một đảng có khả năng cạnh tranh với Đảng Cộng sản Việt Nam…”. Vậy, lời kêu gọi của Vũ chỉ là ảo tưởng ngông cuồng./.

SỰ ẢO TƯỞNG CỦA NHỮNG KẺ KHOÁC ÁO DÂN CHỦ

Tre Việt - Hiện nay, trên các trang mạng xã hội do “các nhà dân chủ” quản trị cụm từ, như: “Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn, độc tài” xuất hiện với tần xuất cao. Cùng với đó là những “Lời kêu gọi”, “Kiến nghị”,… đòi “Hạ bệ vai trò của Đảng Cộng sản”, thực hiện đa nguyên chính trị,… theo kiểu phương Tây. Thật là ảo tưởng!
Họ cho rằng “Kịch bản của Đảng Cộng sản Việt Nam không khác với Liên Xô là mấy”!? Vì thế, chúng tìm mọi thủ đoạn từ “đấu tranh bất bạo động” gắn mác “dân chủ, nhân quyền”, đến tổ chức lập hội, lập bè, lôi kéo người dân tham gia thực hiện những hoạt động trái pháp luật, như: tụ tập đông người, tuần hành, biểu tình,… để phản đối đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước,… hòng làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Chúng hy vọng rằng: “Kịch bản xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã thành công ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, ắt sẽ có ngày thắng lợi ở Việt Nam!?”. Để thực hiện mưu đồ này, chúng tích cực lôi kéo, đào tạo đám lưu manh mang danh “Các nhà hoạt động dân chủ”, “dân oan”, “nhà báo tự do”, “nhà hoạt động nhân quyền” và “tù nhân lương tâm”,… điên cuồng tấn công vào nội bộ, bôi nhọ sự lãnh đạo của Đảng, tác động sâu vào tư tưởng, niềm tin của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Chúng đưa ra luận điệu và tìm cách chứng minh rằng: “chế độ một đảng duy nhất lãnh đạo là đối lập với dân chủ, độc nhất với độc tài, cản trở sự phát triển” và “chỉ có đa nguyên, đa đảng mới có thể khơi dậy sự sáng tạo của toàn dân, tốt hơn cho sự phát triển của xã hội!?”. Những luận điệu này, thực chất là nhằm che đậy mục đích hạ bệ Đảng Cộng sản, hướng lái đất nước Việt Nam phát triển theo chủ nghĩa tư bản. Cả về lý luận và thực tiễn đã chứng minh rõ dân chủ không phụ thuộc vào số lượng các đảng chính trị mà điểm mấu chốt là bản chất chính trị của đảng cầm quyền. Điển hình như ở Chi-lê, Chính phủ quân sự do Pi-nô-chê đứng đầu, hay ở Phi-lip-pin thời chính quyền F. Mac-cốt tồn tại chế độ độc tài trong môi trường chính trị đa đảng. Trong thực tiễn, chúng thường viện dẫn và xuyên tạc sự thật lịch sử để cố chứng minh rằng “nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không “tiếm quyền” thì Việt Nam đã đứng trong danh sách những nước phát triển?!”, rồi “Đảng chỉ lãnh đạo trong chiến tranh, còn trong xây dựng kinh tế thì nên trao quyền cho lực lượng chính trị khác”, v.v. Chúng đòi Đảng Cộng sản Việt Nam tự nguyện rời bỏ vai trò lãnh đạo của mình, xóa bỏ Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, lịch sử là hiện thực sống động nhất bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc mà đám cơ hội khoác áo dân chủ đang tuyên truyền. Cuối thế kỷ XIX và những thập niên đầu thế kỷ XX, nhân dân Việt Nam sống cuộc đời nô lệ “một cổ hai tròng”. Không cam chịu ách thống trị hà khắc của thực dân Pháp và chế độ phong kiến thối nát, nhân dân Việt Nam đã vùng lên đấu tranh dưới các ngọn cờ lãnh đạo theo hệ tư tưởng phong kiến, hay lập trường nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Đó là các phong trào: Cần Vương, Yên Thế, cuộc vận động Duy Tân, Đông kinh nghĩa thục, Phong trào Đông Du, v.v. Mặc dù các phong trào đó thể hiện quyết tâm, khí thế và tinh thần yêu nước bất khuất, kiên trung ngút trời của nhân dân Việt Nam, nhưng đều lâm vào bế tắc, bị đàn áp dã man, rồi cuối cùng thất bại. Thời gian này, hàng loạt tổ chức đảng phái chính trị ra đời, như: Hội Phục Việt (năm 1925), Việt Nam Quốc dân đảng (năm 1927),... với nhiều cương lĩnh chính trị khác nhau, nhằm chiếm lĩnh vũ đài lịch sử, nhưng tất cả những ngọn cờ này đều nhanh chóng bị hạ xuống, bởi không phù hợp với xu thế thời đại, không thỏa mãn được lợi ích và nguyện vọng chính đáng của cả dân tộc.
Ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với cương lĩnh, đường lối cứu nước đúng đắn, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong phong trào yêu nước, đánh dấu sự kết thúc thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam. Vậy là, chính thời đại và nhân dân đã trao trọng trách lãnh đạo dân tộc, đất nước cho Đảng Cộng sản Việt Nam, chứ đâu phải là “tiếm quyền” như sự xuyên tạc của những kẻ cơ hội. Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng được nhân dân giao trọng trách vinh quang đó. Bởi, Đảng là “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Đó là điều mà không một đảng phái nào khác trong lịch sử Việt Nam, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể gánh vác nổi. Từ khi ra đời, lãnh đạo đất nước đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ vai trò đối với đất nước, dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam làm nên thắng lợi vĩ đại: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á; lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước vững vàng bước vào công cuộc đổi mới để “xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Thực tiễn 85 năm qua đã chứng minh cho toàn thế giới thấy rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh: Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hiện nay, tuy còn không ít khó khăn, thách thức, nhưng Việt Nam vẫn có sự phát triển ổn định, vững chắc về mọi mặt. Nền kinh tế phát triển năng động, ổn định, hiệu quả; đời sống của nhân dân được cải thiện, chính trị ổn định, quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Hiệp định thương mai xuyên Thái Bình Dương (TPP); là Ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009; Ủy viên Hội đồng nhân quyền; Ủy viên Hội đồng kinh tế - xã hội, Ủy viên Hội đồng UNESCO Liên hợp quốc,… Việt Nam có quan hệ trên 180 nước và nền kinh tế, vùng lãnh thổ; trong đó, có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 05 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam là điểm đến đầu tư của các thể chế kinh tế, nhà đầu tư có uy tín trên thế giới. Hàng loạt chuyến thăm chính thức của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước Việt Nam đến một số nước Tây Âu, Đông Âu, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga, Trung Quốc,… và ngược lại đã khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế, tự nó đập tan những luận điệu sai trái của những kẻ cơ hội, khóa áo dân chủ.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận rõ có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm và nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, tiếp tục lãnh đạo để đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam tiến lên. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) của Đảng “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm và biện pháp khắc phục. Hành động quang minh chính đại đó không chỉ phản ánh đúng tâm trạng của đảng viên, mà còn là tâm nguyện của mọi tầng lớp nhân dân, vì thế được nhân dân tin tưởng. Trên thế giới, nước nào cũng có đảng chính trị lãnh đạo xây dựng và phát triển đất nước, khác nhau ở chỗ, nước đó có một đảng hay nhiều đảng và đảng cầm quyền đứng trên lập trường nào. Thực tiễn chứng minh: Đảng cầm quyền nếu không thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn để luôn trong sạch, vững mạnh thì vai trò cầm quyền của Đảng sẽ bị lu mờ và tự đánh mất vai trò lãnh đạo của mình. Điều này đã trở thành nguyên tắc. Cả về lý luận và thực tiễn đã chứng minh: “Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng “đạo đức, trí tuệ, văn minh”, lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Những âm mưu, thủ đoạn của những kẻ cơ hội khoác áo dân chủ, giả danh, giả nghĩa có thâm hiểm đến đâu cũng chỉ là ảo tưởng. Nhân dân Việt Nam luôn nhận rõ và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ./. 

Oct 29, 2015

SỰ SUY DIỄN LỐ BỊCH

        Đảng ta công bố Dự thảo các văn kiện Đại hội XII của Đảng với mong muốn đón nhận, tiếp thu những đóng góp hợp lý của nhân dân để bổ sung, hoàn thiện đường lối lãnh đạo trong nhiệm kỳ tới. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch tăng cường chống phá, trong đó việc thổi phồng những yếu kém bất cập để rồi suy diễn, xuyên tạc là một chiêu trò của chúng.

Trong Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XII, Đảng ta đánh giá: “Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”. Đó là thể hiện tinh thần thẳng thắn, nghiêm túc, dũng cảm, nhìn thẳng vào sự thật, không che dấu khuyết điểm; đồng thời, thể hiện sự cảnh tỉnh, phản tỉnh sâu sắc cũng như ý thức cầu thị của Đảng trước vận mệnh của Tổ quốc và chế độ. Lợi dụng điều này, một số kẻ mang danh nhà “dân chủ” ra sức thổi phồng, phóng to sự đánh giá hết sức khách quan, trung thực, cầu thị trên. Từ đó, họ cho rằng bốn nguy cơ: tụt hậu về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan niêu; “diễn biến hòa bình” được nói đến lần đầu tiên tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01-1994), 21 năm sau chúng chẳng những vẫn tồn tại mà còn khỏe mạnh hơn. Như vậy là Đảng đã thất bại. Nếu bảo thành công thì tại sao từ “bốn nguy cơ” lại đẻ thêm ra hai nguy cơ cực kỳ nguy hiểm được gọi là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng? Vì vậy giấc mơ xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” từ khi có đổi mới năm 1986 cũng đã tan ra mây khói, v.v.
Thật trơ trẽn khi đưa ra nhận định trên, họ không những không khách quan, thiếu căn cứ thực tiễn, phi lô-gích, không xuất phát từ cơ sở luận cứ nào, mà họ còn cố tình giả mù, giả điếc trước những thành tựu của Việt Nam đạt được trong công cuộc đổi mới gần 30 mươi năm qua. Hiện Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, quy mô và tiềm lực kinh tế liên tục tăng lên, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam bình quân giai đoạn 1990 - 2014 đạt 6,9% năm; riêng GDP năm 2015 đạt khoảng 204 tỷ USD gấp 30 lần năm 1990; thu nhập bình quân năm 1990 đạt 96 USD/người, thì năm 2015 đạt 2.200 USD/người, tăng gấp 21 lần so với trước thời kỳ đổi mới (năm 1986). Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới tại Hội nghị Đối tác Phát triển Việt Nam (ngày 05-12-2014), trong giai đoạn khủng khoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (2008 - 2013), tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 4,6%, trong khi đó: In-đô-nê-xi-a là 4,5%; Phi-líp-pin là 3,3%; Thái Lan là 2,7%, Ma-lai-xi-a là 2,6%. Đây liệu có phải là bằng chứng đủ làm sáng mắt những nhà “dân chủ” giả mù hay suy diễn? Nếu chưa thuyết phục thì những nhà “dân chủ” chống mắt mà nhìn cho rõ: trước đổi mới Việt Nam phải nhập khẩu lương thực thì đến nay lại là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới; mới nhất, ngày 05-10-2015, Việt Nam đã ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới. Như vậy, chắc hẳn đủ kín để bịt mồm mấy kẻ lải nhải rằng nền kinh tế Việt Nam hiện nay tụt lùi so với trước.
Không chỉ kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển mà chính trị - xã hội cũng ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hoá - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi, đẩy lùi được đói nghèo, lạc hậu. Việt Nam đã hoàn thành hầu hết và cơ bản các chỉ tiêu Thiên niên kỷ. Đặc biệt là đã thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, riêng trong giai đoạn 2011 - 2015 Việt Nam đã giành tới 364.000 tỷ đồng để xóa đói, giảm nghèo; nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 58,1% năm 1993 xuống còn gần 6% năm 2014 và dự kiến dưới 5% vào năm 2015. Việt Nam không chỉ biểu tượng của “chủ nghĩa Anh hùng cách mạng” mà còn là tấm gương “xóa đói, giảm nghèo”, là điểm sáng thu hút bạn bè đến đầu tư, thăm quan, du lịch.
Cùng với đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng (Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân). Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Trên bình diện quốc tế Việt Nam Nam tham gia ngày càng mạnh mẽ vào đời sống chính trị thế giới. Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 180 nước và vùng lãnh thổ, trong đó quan hệ đối tác Chiến lược và đối tác Toàn diện với 13 nước. Việt Nam, là: thành thành viên chính thức của WTO; Ủy viên Hội đồng Nhân quyền tại Đại hội đồng Liên hợp quốc (khóa 68); Tổng Thư ký ASEAN nhiệm kỳ 2013-2017; Chủ tịch Đại hội đồng Liên minh Nghị viện IPU-132,… và là một thành viên có trách nhiệm cao trong giải quyết các vấn đề đặt ra.
Những thành tựu trên khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Đó là sự thật, không một ai, một thế lực nào có thể phủ nhận!
Tuy nhiên, bên cạnh đó những biểu hiện của bốn nguy cơ mà Đảng ta đã xác định vẫn luôn hiện hữu, nhất là: tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nạn tham nhũng và tệ quan niêu; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có xu hướng diễn biến phức tạp trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Thiết nghĩ, đó cũng là lẽ tự nhiên của quá trình vận động phát triển mà bất cứ một quốc gia, thể chế chính trị nào cũng gặp phải, không riêng gì ở Việt Nam. Việc khắc phục những biểu hiện trên không hề đơn giản, nó thực sự là cuộc đấu tranh phức tạp; đòi hỏi phải kiên quyết, kiên trì, lâu dài. Gần đây việc Chủ tịch Hội đồng Liên hợp quốc (khóa 68) Rôn-hát tham nhũng 1,8 triệu USD là một minh chứng sinh động nhất cho vấn nạn này, v.v. Vấn đề quan trọng là: phải thẳng thật, dũng cảm nhìn thẳng vào thực tiễn để đánh giá đúng sự thật, nhất là những khuyết tật, những yếu kém. Từ đó, đề ra đường lối, hoạch định chính sách và triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp khắc phục thì mới tồn tại, phát triển. Xin mạn phép hỏi các nhà “dân chủ” giả dạng: có ai nắm tay từ tối đến sáng không? Trong đời liệu có ai không vấp ngã và không có những sai lầm, khuyết điểm không? Chắc là không có phải không thưa những nhà “dân chủ”?
Thế thì, việc Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đánh giá đúng sự thật”, công khai thừa nhận những khuyết điểm, cũng như cảnh báo những nguy cơ cực kỳ nguy hiểm đang hằng ngày tác động trực tiếp đến quá trình lãnh đạo của mình để có các giải pháp đấu tranh, khắc phục là việc làm hết sức bình thường, là lẽ tự nhiên hợp quy luật; tất cả vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bởi, nếu không tự nhìn nhận đánh giá đúng khuyết điểm thì sẽ không biết khắc phục từ đâu, biết đổi mới cái gì? Điều đó tất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Sự sụp đổ, tan rã của Đảng Cộng sản ở Liên - Xô và các nước Đông Âu vào những năm 90 của thế kỷ trước là một bài học vô cùng đắt giá đã chứng minh điều đó. Hẳn nhiên, các thế lực thù địch đang muốn tái diễn kịch bản đó ở Việt Nam? Vì thế, họ dùng trăm phương nghìn kế với nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc để chống phá cách mạng Việt Nam là điều không có gì lạ.
Điều đáng bàn là sự ngô nghê, giả mù, giả điếc của các nhà “dân chủ” không xuất phát từ cái tâm trong sáng mà là từ dụng ý xấu, luôn soi mói nhìn xã hội chỉ một màu xám, để rồi dùng chiêu thổi phồng những hạn chế, khuyết tật vốn tồn tại và sống “tầm gửi” giống như họ bên cạnh sự phát triển của bất cứ xã hội, thể chế chính trị nào cũng có, cũng phải đương đầu giải quyết. Nực cười hơn, khi họ cố suy diễn từ những biểu hiện, hiện tượng bên ngoài của sự việc, như: từ những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Đảng ta đã nêu, họ cho rằng đó là bản chất, từ đó quy đồng cộng lại theo kiểu toán học của các cháu lớp một, lớp hai,... thành nguy cơ rồi hàm hồ đưa ra những luận điệu sai trái để phát tán nhằm gây nhiễu loạn xã hội, hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thật là sự suy diễn hết sức lố bịch của những nhà mang danh “dân chủ” - đồ “ếch ngồi đáy giếng” đòi luận anh hùng!

Oct 24, 2015

Chỉ xằng bậy

TRE VIỆT - Trên trang Dân làm báo vừa có bài viết xằng bậy Nói với Dư luận viên, đảng viên mù đảng, cuồng Hồ” của Lê Nguyên. 
Mở đầu bài viết đã thấy sặc mùi xằng bậy, khiến người dù có kiên trì cũng khó mà đọc hết bài viết này, dù nó không dài. Lê Nguyên viết rằng: “Sự thật đã rõ, Hồ Chí Minh vì tiền, lãnh tiền cộng sản quốc tế để làm cái việc mà tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản gọi là “hoạt động cách mạng” (!)Lê Nguyên vu khống Hồ Chí Minh “vì tiền” một cách trơ chẽn đến thế là cùng. Cả dân tộc ta, cả thế giới đều rõ Hồ Chí Minh “cả cuộc đời vì nước, vì non”. Người hy sinh hạnh phúc riêng để toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng. Cuộc đời của Hồ Chí Minh luôn với bộ quần áo ka ky bạc màu, đôi dép cao su, chiếc xe ô tô cũ kỹ,… Ngày nay, những ai vào thăm nơi ở và làm việc của Người đều rất xúc động trước sự giản dị của vị Chủ tịch nước với ngôi nhà sàn nhỏ nhắn, đồ dùng rất đỗi bình dị. Những đồ dùng giản dị đó “mà biết nói năng thì hàm răng của Lê Nguyên cũng chung số phận như hàm răng của thầy địa lý trước kia vậy.
Lê Nguyên hậm hực khi Hồ Chí Minh đưa chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, nhưng hắn ta cũng buộc phải trích blogger Kami, và đây là những gì mà Lê Nguyên thừa nhận. Hắn ta viết: “blogger Kami một “bỉnh bút” quen thuộc với một số trang báo lề dân (lề trái), có văn phong khá mạnh bạo phê phán Đảng, chế độ cộng sản với lý lẽ khá thuyết phục”, nhưng Kami cũng phải thừa nhận: “...Việc ông Hồ Chí Minh lựa chọn cho mình con đường cộng sản và mang nó về áp đặt cho nền chính trị Việt Nam trong thế kỷ XX để tiến hành một cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và đã giành được độc lập cho Việt Nam từ tay thực dân Pháp, phát xít Nhật là điều không thể chối bỏ. Nếu nói đây là sự lựa chọn sai lầm thì đó là sự phủ nhận lịch sử và là điều không đúng đắn Vào thời điểm đó thì ông Hồ Chí Minh không còn các lựa chọn nào khác, một khi chủ thuyết ấy đang là trào lưu. Sự thất bại của các ông Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh trong giai đoạn đó là những bằng chứng...”. Như vậy, chính blogger Kami - blogger không có thiện cảm với chế độ cộng sản - cũng phải công nhận sự đúng đắn trong lựa chọn con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh mà Lê Nguyên đã phải trích dẫn. Đó lại thêm cái vả nữa dành cho Lê Nguyên. Phen này, chắc chắn Lê Nguyên “lợi thì có lợi nhưng răng không còn” rồi!

Oct 18, 2015

THẤT BẠI LÀ ĐIỀU TẤT YẾU

          TRE VIỆT - “Trước quốc nạn, chúng ta phải làm gì, và làm thế nào?” là tên bài viết của Bùi Tín trên blog của ông ta, lại được mõ làng - VOA tiếng Việt - đăng ngày 18/10/2015. Đọc bài viết thấy rõ tâm địa đen tối của Bùi Tín (kẻ đảo tẩu đã mấy chục năm rồi, nay đã gần 90 tuổi) như con rắn độc.
          Cuối bài viết này, Bùi Tín “nhắn nhủ”: “Rất mong những suy tư, góp ý của một cựu đảng viên cộng sản, nay là nhà báo tự do sắp tròn 90 tuổi, sẽ là chút cống hiến nhỏ bé cho cuộc cách mạng dân chủ đang độ chín tới hoàn toàn”. Đọc lời lẽ trên thấy ám ảnh nỗi thất vọng của kẻ “gần đất xa trời”. Hãy xem “cống hiến nhỏ bé” của kẻ này như thế nào?
          Kẻ sắp chết này “cống hiến” trên 4 nội dung: “I- Chúng ta làm gì?  II- Chúng ta làm cuộc cách mạng ấy như thế nào? III - Những ai tham gia cuộc cách mạng này? IV - Thời cơ đã đến?”. Nhưng đọc xem ra chẳng có gì gọi là “cống hiến” cả, chỉ là sự ăn cắp, cóp nhặt của người khác, nhằm kiếm ít bơ thừa, sữa cặn sống những ngày tháng cuối đời nơi đất khách quê người. Thật tội nghiệp cho ông già Bùi Tín.
          Bùi Tín nhai lại Trần Đĩnh trong cuốn Đèn Cù, khi Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân đánh thực dân, đế quốc giành độc lập dân tộc thì nói là “tốt đen” cho Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc thì chỉ là cách diễn đạt khác với Trần Đĩnh mà thôi. Ai cũng biết trong cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc ta, thì chẳng những nhân dân Việt Nam mà nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới đều có chung kẻ thù là thực dân, đế quốc; đặc biệt là nhân dân các nước XHCN, tiêu biểu là nhân dân Liên Xô, Trung Quốc. Ấy thế mà, hết Trần Đĩnh, nay lại Bùi Tín cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là “Đèn Cù”, “tốt đen” của Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc. Bọn họ cố tình có mắt như mù, có tai như điếc không thấy rõ điều hiển nhiên: kẻ thù của bạn cũng là kẻ thù của ta, bạn của bạn cũng là bạn của ta, nên cứ nói xiên xỏ mà lại tự nhận là “cống hiến”. Cống hiến của họ là thế đấy!
          Bùi Tín lại nhai lại bài viết “Năm cùm một gông” mới đây của ông ta cũng trên mõ làng - VOA. Mà không chỉ ông ta, có một số kẻ khác cũng ra sức kêu gào chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã hết thời, CNXH mơ hồ, phê phán kinh tế quốc doanh, thì cũng chẳng qua ông ta tham gia dàn đồng ca lạc điệu mà thôi. Xin thưa, tư tưởng của C. Mác vẫn tỏa sáng trong thế kỷ XXI là nhận định của nhiều học giả, chính khách trên thế giới. Các tác phẩm của C. Mác được nhà xuất bản ở Đức giữ bản quyền vẫn tái bản nhiều lần nhằm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu của các nhà kinh tế tư sản. Hiện nay, mặc dù số nước đi theo con đường XHCN có ít hơn trước, nhưng vẫn chiếm 1/5 dân số thế giới. Và dù ít vẫn là chân lý. Lịch sử đã chứng minh cả giáo hội và nhận thức của con người trước đó đã thua nhận thức của một nhà khoa học khi chứng minh: Trái đất không đứng yên, mà nó tự quay quanh mặt trời. Sau đó, người ta mới thấy rõ tư duy vượt trước thời đại của nhà khoa học thiên tài và phải ngả mũ trước sự thiên tài này. Còn với kinh tế nhà nước mà ông gọi là quốc doanh (tuy không hoàn toàn đồng nhất), như ông đã biết, bất kỳ nước nào cũng phải dựa trên tiềm lực kinh tế nhất định, phải có cơ sở kinh tế để nhà nước thực hiện chức năng của mình. Với nhà nước XHCN phải có kinh tế nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện chính sách an sinh xã hội. Nhờ có kinh tế nhà nước mà Việt Nam thực hiện xóa đói giảm nghèo trở thành “điểm sáng”, “hình mẫu” trong thực hiện Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, và mong muốn Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm. Ông chuyên theo dõi tình hình đất nước, nhưng chỉ để ý các tin phục vụ tâm địa đen tối, làm nọc độc của con rắn, mà cố tình nhắm mắt làm ngơ trước đánh giá của Hội nghị phát triển bền vững của Liên hợp quốc vừa mới họp ở Hoa Kỳ hay sao?
Ông lại cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam “lừa dân” nói đổi mới, nhưng “đổi mà không mới”. Ông già Bùi Tín ơi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã công khai tuyên bố là đổi mới, nhưng không đổi màu. Cái ông đòi hỏi là phải đổi màu, muốn Việt Nam xa rời con đường phát triển XHCN thì chỉ có nằm mơ giữa ban ngày. Trong quá trình đổi mới xây dựng đất nước vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng Cộng sản Việt Nam phải lãnh đạo giữ vững định hướng XHCN. Điều đó đã thể hiện rõ, công khai trong các văn kiện của Đảng, ông nói “mỵ dân” là sao?
Con rắn độc Bùi Tín, cổ súy cho cách mạng màu ở Việt Nam. Ông ta cho rằng: “Ngày nay, nhờ phương tiện truyền thông bén nhạy, Internet, điện thoại cầm tay, Facebook để tổ chức điều hành các cuộc xuống đường nhanh nhạy, chặt chẽ”. Đây là cách mà các thế lực thù địch đã tận dụng lật đổ chính quyền của một số nước trên thế giới, ai cũng biết mà lão già này tự nhận là mình “cống hiến” (!). “Cống hiến” của ông ta là nhằm thay đổi chế độ XHCN ở Việt Nam, đòi đa nguyên, đa đảng, đòi hiến pháp khác, quốc hội khác. Đúng là rắn độc. Nhưng ông già gần đất xa trời thì làm được gì chứ? Hơn nữa, nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào con đường Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Đành rằng, trong quá trình dựng xây đất nước, ở chỗ này chỗ khác, lúc này lúc khác trong đội ngũ của Đảng vẫn còn một bộ phận suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Số cán bộ, đảng viên này không thực sự vì dân làm hoen ố hình ảnh của Đảng mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng đã chỉ ra. Một Đảng giấu diếm khuyết điểm của mình là một đảng yếu, đảng có gan chỉ ra khuyết điểm của mình là một đảng mạnh, như Hồ Chí Minh đã nói. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhìn thấy, chỉ rõ khuyết điểm của mình và quyết tâm khắc phục, nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới, thì đó là một đảng mạnh. Vậy nên, “cống hiến” của Bùi Tín thất bại là điều tất yếu./.

Oct 17, 2015

PHÚC TRÌNH CỦA BỘ NGOẠI GIAO HOA KỲ VỀ TỰ DO TÔN GIÁO LẠI BỊ SAI LỆCH

TRE VIỆT - “Đáng tiếc Báo cáo tự do Tôn giáo quốc tế 2014 của Hoa Kỳ, mặc dù đã ghi nhận những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực này, vẫn tiếp tục đưa ra một số đánh giá không khách quan, trích dẫn những thông tin sai lệch về Việt Nam”. Đó là khẳng định, của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình, tại cuộc họp báo thường kỳ ngày 15/10 vừa qua, phản đối Phúc trình hằng năm về tự do tôn giáo thế giới, của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố ngày 14/10/2015.
Điều 24, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân Việt Nam được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp quy khác. Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo có hiệu lực từ 15/11/2004, đã thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước Việt Nam, bảo đảm cho công dân thực hiện quyền về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ngày 01/3/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định 22/2005/NĐ-CP để hướng dẫn một số điều trong Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo. Trên cơ sở đánh giá thực tiễn hoạt động tôn giáo tại Việt Nam, tháng 11/2012, Việt Nam đã ban hành Nghị định 92/2012/NĐ-CP quy định chi tiết về biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo với nhiều điểm mới phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sinh hoạt tôn giáo của người dân; trong đó, có quy định điều kiện và thời gian để một hoạt động tôn giáo được cấp có thẩm quyền công nhận là tổ chức tôn giáo. Theo đó:
Về thời gian, sau 03 năm kể từ ngày được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo, tổ chức có hoạt động tôn giáo liên tục, không vi phạm các quy định của Điều 8, Nghị định 92/2012/NĐ-CP, ngày 08/11/2012 của Chính phủ và đáp ứng các điều kiện:
- Là tổ chức của những người có cùng tín ngưỡng, có giáo lý, giáo luật, lễ nghi không trái với thuần phong, mỹ tục, lợi ích của dân tộc;
- Có hiến chương, điều lệ thể hiện tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và không trái với quy định của pháp luật;
- Có đăng ký hoạt động tôn giáo và hoạt động tôn giáo ổn định;
- Có trụ sở, tổ chức và người đại diện hợp pháp;
- Có tên gọi không trùng với tên gọi của tổ chức tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận thì được quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo.
Về thẩm quyền công nhận và thời hạn trả lời:
Khoản 3, Điều 8, Nghị định 92 quy định:
- Trong thời hạn 45 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Thủ tướng Chính phủ xét công nhận tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; trường hợp không công nhận phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
- Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xét công nhận tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động chủ yếu ở một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Chính phủ Việt Nam đã quy định rõ ràng như vậy, tín đồ các tôn giáo đã biết và hiểu rõ, muốn được cấp có thẩm quyền công nhận là tổ chức tôn giáo, thì phải đăng ký để được hoạt động theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Không đăng ký, hoặc đăng ký nhưng không đủ điều kiện trên thì không được công nhận là tổ chức tôn giáo thì không hoạt động như tổ chức tôn giáo được. Bởi lẽ, Việt Nam cũng như các quốc gia có chủ quyền khác, mọi hoạt động của tổ chức, cá nhân, trong đó có hoạt động tôn giáo đều phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Thế mà, Báo cáo tự do Tôn giáo quốc tế 2014 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại cho rằng, nhà cầm quyền Việt Nam tiếp tục giới hạn hoạt động của các tổ chức tôn giáo không đăng ký (!).
Khi được hỏi: Tại sao các tổ chức này không đăng ký hoạt động với nhà nước để được công nhận và sinh hoạt đạo dễ dàng hơn? Một số hội nhóm tôn giáo nói “thực hành tín ngưỡng là quyền căn bản, công dân có quyền sinh hoạt tôn giáo độc lập với nhà nước, không phải xin - cho”. Điều đó cho thấy, rõ ràng họ không muốn đăng ký vì muốn sống ngoài pháp luật, bất chấp luật pháp mà không nơi nào trên thế giới có được. Đó là sự đòi hỏi phi lý, không chấp nhận được. Đây chỉ là số ít, không phản ánh đúng bức tranh tôn giáo Việt Nam hiện nay, với 95% dân số có đời sống tín ngưỡng. Hằng năm, Việt Nam có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia và địa phương được tổ chức. Tín đồ tôn giáo hoàn toàn tự do trong việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo, bày tỏ và thực hành đức tin tôn giáo của mình. Chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo được tự do trong việc thực hành các hoạt động tôn giáo theo giáo luật. Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc được thực hiện theo quy định của giáo hội. Các tổ chức tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân trong những năm qua đều có sự phát triển về số lượng cơ sở giáo hội, về tín đồ, chức sắc nhà tu hành, về việc xây dựng mới hoặc tu bổ các cơ sở thờ tự, bảo đảm kinh sách, các hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ và giáo lý, giáo luật. Các chức sắc, nhà tu hành được tham gia học tập, đào tạo ở trong nước và nước ngoài hoặc tham gia các sinh hoạt tôn giáo ở nước ngoài. Nhiều tổ chức tôn giáo nước ngoài đã vào giao lưu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam. Điển hình là, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc 2008 và 2014 tại Việt Nam.
Việc in kinh sách và xuất bản các ấn phẩm khác liên quan đến tôn giáo được duy trì thường xuyên, bảo đảm phục vụ yêu cầu hoạt động tôn giáo tại Việt Nam. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã có báo, tạp chí, bản tin, như: Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Báo Giác ngộ của Phật giáo; Tập san Hiệp thông, Báo Người Công giáo Việt Nam, Báo Công giáo và Dân tộc của Công giáo; Tạp văn Hương sen của Phật giáo Hòa Hảo; Bản tin Mục vụ và Bản tin Thông công của Tin lành,… đã nói lên bức tranh phong phú, sinh động của tôn giáo Việt Nam. Đồng thời, bác bỏ báo cáo sai lệch về tình hình tôn giáo Việt Nam của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ./. 

Oct 11, 2015

ĐỪNG ĐÁNH TRÁO KHÁI NIỆM

Tre Việt - Ngày 08/10/2015, trên trang Ba Sàm có bài: “Đại hội Đảng XII: Sao phải chống “diễn biến hòa bình”? của Nguyễn Văn Do đã cho rằng: “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH là điều vô cùng tốt đẹp! Vậy mà trong Dự thảo báo cáo Đại hội Đảng XII lại chống diễn biến hòa bình”. Nguyễn Văn Do còn viết tiếp: “Sử dụng giai cấp đấu tranh để giành chính quyền thì bất quá trở thành giai cấp thống trị chứ làm sao mang tới công bằng, hạnh phúc cho mọi người… Ở Sing, Thái Lan, Nhật, Mỹ, Âu châu,… có nước nào phải ra sức chống diễn biến hòa bình đâu. Khi có suy thoái về kinh tế, suy thoái về chính trị,… người ta lúc nào cũng chờ mong diễn biến, nhất là diễn biến hòa bình để thoát khỏi bế tắt, đâu có ai ngu đến nỗi chống lại điều tốt đẹp ấy,…”. Viết vậy, là ông ta đã đánh tráo khái niệm. 
          Cần thấy rằng: “Diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nhằm xóa bỏ CNXH và phong trào độc lập dân tộc. Chiến lược “Diễn biến hòa bình” được thực hiện thông qua phương thức tổng hợp, bằng các biện pháp phi quân sự là chủ yếu, thẩm thấu dần từng bước; tạo nên các nhân tố, lực lượng đối lập ngay trong lòng các nước XHCN và dân tộc độc lập để chống phá, tiến tới làm chệch hướng và lật đổ chế độ, giành thắng lợi cho chủ nghĩa tư bản mà không cần chiến tranh.
“Diễn biến hòa bình” có đặc trưng cơ bản sau:
          - Về mục đích: xóa bỏ CNXH trên quy mô toàn cầu, chống phá phong trào độc lập dân tộc, thiết lập trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo, chi phối.
          - Về phương thức: Với phương châm, “mềm, ngầm, sâu, trực tiếp, toàn diện”; tiến hành chống phá trên tất cả các mặt, thẩm thấu từ bên ngoài vào, đồng thời làm suy yếu và diễn biến từ bên trong.
          - Về lực lượng tiến hành: Bên trong nội bộ là chính kết hợp với xâm nhập, hỗ trợ từ bên ngoài thông qua các hoạt động phi quân sự.
          - Về không gian, thời gian: Mang tính toàn cầu, lâu dài.
          - Về thủ đoạn chủ yếu: Dùng biện pháp tổng hợp trên các mặt (chính trị, tư tưởng, văn hóa, kinh tế, an ninh, đối ngoại, quân sự...) lấy phi quân sự là chính, kết hợp răn đe can thiệp quân sự. Đồng thời, triệt để khai thác khoét sâu những sai lầm, yếu kém trong nội bộ để thúc đẩy tự diễn biến từ bên trong.
          Thực tiễn cho thấy, để lật đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước ở Đông Âu, chủ nghĩa đế quốc đã áp dụng các biện pháp, thủ đoạn sau:
          Chuyển hóa nội bộ, lợi dụng tôn giáo và khủng hoảng chính trị - xã hội, xóa bỏ chế độ XHCN thông qua bầu cử hợp hiến, như ở Ba Lan, Hung-ga-ri. Chuyển hóa bên trong, tạo khủng hoảng chính trị - xã hội, kết hợp kích động biểu tình, tạo áp lực của quần chúng đòi thay đổi chế độ, như ở Cộng hòa dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni. Chuyển hóa và chia rẽ bên trong và bên trên, vô hiệu hóa lực lượng vũ trang, tạo ra tình thế phản cách mạng để thay đổi chế độ, như ở Liên Xô. Lợi dụng vấn đề dân tộc để kích động ly khai làm suy yếu hoặc tan rã quốc gia thống nhất, như ở Nam Tư.
          Một dạng của “Diễn biến hòa bình” là cách mạng màu. Đây là cuộc cách mạng dưới sự chỉ đạo, hỗ trợ về mọi mặt của Mỹ và phương Tây, các thế lực chống đối khoét sâu sai lầm, yếu kém của chính quyền, khó khăn của đất nước (khủng hoảng kinh tế - xã hội, tham nhũng - quan liêu, phân hóa chia rẽ nội bộ...); lợi dụng dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để tiến công toàn diện về: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng,... kết hợp với răn đe và gây áp lực của nước ngoài; lực lượng đối lập tập trung đánh thẳng vào cơ quan lãnh đạo nhà nước bằng thủ đoạn: vu cáo, xuyên tạc, bôi nhọ chính phủ, chia rẽ quân đội, cảnh sát, viện kiểm sát với ban lãnh đạo cấp cao, vô hiệu hóa lực lượng vũ trang và cơ quan bảo vệ pháp luật; đẩy đất nước lún sâu vào khủng hoảng toàn diện về: chính trị - kinh tế - xã hội. Vào thời điểm bầu cử, lực lượng chính trị đối lập huy động một bộ phận lớn quần chúng bị kích động, mua chuộc, tiến hành bạo loạn chính trị (có thể có vũ trang); lật đổ, cướp chính quyền ở thủ đô và các thành phố lớn, dựng chính quyền bất hợp pháp, được phương Tây ủng hộ.
           Vì vậy ngày nay, chống “Diễn biến hòa bình” là cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc hết sức quyết liệt, phức tạp và lâu dài của các nước XHCN và dân tộc độc lập trên thế giới với chủ nghĩa đế quốc. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng đặt vấn đề phải chống “Diễn biến hòa bình” là vì thế./.

Oct 7, 2015

Tập Cận Bình nói càn xiên, ngang ngược!

Tre Việt - Nhân dịp chuyến thăm nước chính thức Hoa Kỳ vừa qua, tại cuộc họp báo chung với với Tổng thống Hoa Kỳ Brak Obama tại Vườn Hồng, ông Tập Cận Bình, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố càn xiên, ngang ngược, rằng: Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) và Trường Sa (Trung quốc gọi là Nam Sa) từ xa xưa đã là của Trung Quốc(!?)
Thực ra, những tuyên bố càn xiên, ngang theo kiểu bá quyền nước lớn của các quan chức nhà nước Trung Quốc kiểu như vậy, vốn chẳng lại gì đối người dân Việt Nam. Và những lời nói đã bị nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Trung Quốc cực lực lên án. Thời gian qua, Trung Quốc liên tục có những lời nói, hành động nhằm thể hiện quyết tâm bành trướng ra toàn Biển Đông, điển hình là nhà cầm quyền Trung Quốc đã ra tuyên bố về cái gọi là “đường lưỡi bò”, xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số bãi đá, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam); rồi đưa Giàn khoan Hải Dương-981 vào hoạt động thăm dò trái phép, hay cải tạo các bãi đá, bãi cạn trên vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam; liên tục có những hành động gây mất ổn định, an ninh, an toàn hàng hải trên Biển Đông, v.v. Những hành động ấy của Trung Quốc đã bị nhân dân Việt Nam, nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ và công lý trong khu vực và trên thế giới lên án mạnh mẽ.
Xin thưa ông Tập! Việt Nam là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nhân dân Việt Nam luôn yêu chuộng hòa bình, phấn đấu chung sống hòa bình, là bạn, là đối tác có trách nhiệm với các nước trong khu vực và trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi quốc gia, trong đó có Trung Quốc. Mọi lời nói, hành động làm tổn hại bầu không khí chung sống hòa bình, chủ quyền của các nước trong khu vực và trên thế giới đều bị Việt Nam lên án. Hơn nữa, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước “núi liền núi, sông liền sông”, vốn có mối quan hệ rất đặc biệt, “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, thường xuyên ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau lúc hoạn nạn, khó khăn. Ngày nay, Việt Nam và Trung Quốc đã có mối quan hệ hữu nghị, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện; nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc vốn có mối quan hệ chung sống hòa bình, hòa hợp, hòa hiếu, cùng nhau cần cù lao động dựng xây đất nước. Mối quan hệ này, đã tạo môi trường thuận lợi để nền kinh tế Việt Nam cũng như nền kinh tế của Trung Quốc từng bước phát triển vững chắc; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân hai nước. Trung Quốc được thế giới đánh giá là nền kinh tế lớn đứng thứ 2 thế giới, có tiềm lực quân sự mạnh trong khu vực, có tầm ảnh hưởng chính trị và kinh tế toàn cầu. Còn Việt Nam được đánh giá là nền kinh tế phát triển năng động, góp phần tích cực vào hòa bình và phát triển ở khu vực và trên thế giới
Trước phát biểu càn xiên, ngang ngược của ông Tập Cận Bình, Việt Nam có quyền đặt câu hỏi: Phải chăng, ông ta là lãnh đạo của Trung Quốc - nước lớn,… nên nói sao cho sướng mồm là được? Theo Tre Việt biết, người dân Việt Nam cũng như người dân Trung Quốc luôn tin tưởng vào lời phát biểu và hành động của lãnh đạo nước mình. Vì thế, phát biểu càn xiên, ngang ngược của ông cũng phải chăng là khuyến kích tư tưởng đại hán, bá quyền nước lớn vốn đã bị lịch sử lên án và đánh đổ?
 Thưa ông Tập! Người xưa nói rằng: “lời nói đọi máu”. Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Việt Nam có đầy đủ cơ sở lịch sử và pháp lý để chứng minh điều đó và đã chứng minh rõ trước thế giới. Nhân dân Việt Nam sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc. Tinh thần này luôn cuộn chảy trong máu, thịt của mỗi người con dân đất Việt trước đây cũng như hiện nay. Để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của mình phù hợp với luật pháp quốc tế, Việt Nam, là nước đã tham gia Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật Biển từ năm 1977, là một trong 130 quốc gia tán thành ký thông qua Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và cũng là một trong 119 quốc gia (trong đó có Trung Quốc) ký Công ước này. Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ra Nghị quyết phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; ngày 12/5/1997, Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ra công bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Quá trình xác lập chủ quyền biển, đảo của mình trong khu vực đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam cụ thể hóa bằng việc phê duyệt, ký kết song phương và đa phương giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam với các nước có liên quan về vấn đề chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển chồng lấn hoặc có tranh chấp như: Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia (07/7/1982); Thỏa thuận hợp tác khai thác chung Việt Nam - Malaixia (05/6/1992); Phân định biển Việt Nam - Thái Lan (09/8/1997); Hiệp định Phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam - Trung Quốc (25/12/2000); Nguyên tắc ứng xử ở Biển Đông giữa các nước ASEAN và Trung Quốc (DOC) ngày 04/11/2002; Hiệp định phân định thềm lục địa Việt Nam - Inđônêxia (26/6/2003), v.v.
Vậy việc tuyên bố càn xiên, ngang ngược của ông Tập Cận Bình liệu có đúng Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982? Hơn nữa, mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Trung Quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng nhân dân hai nước vun đắp, dựng xây đã được lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nhà nước Việt Nam - Trung Quốc ký thỏa thuận cùng nhau gìn giữ theo phương châm 16 chữ (do chính Trung Quốc khởi xướng) là: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” bị ông quẳng đi đâu rồi? Chẳng nhẽ, chữ ký của lãnh đạo Trung Quốc vào Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và những văn kiện, thỏa thuận nói trên là không có giá trị, chỉ để “cho vui” hay sao? Lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc cũng đã ký Tuyên bố Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển phù hợp với các quy định và thực tiễn pháp luật quốc tế và nhiều văn kiện mang tính pháp lý khác giữa hai nước cũng như trong khu vực về việc giải quyết những bất đồng trên biển,… ông Tập Cận Bình quên, hay cố tình quên vậy? Thực ra Ông không quên đâu, nhưng cái tư tưởng đại hán, bành trướng bá quyền, âm mưu độc chiếm Biển Đông, biến tuyên bố cái gọi là “Đường lưỡi bò trên biển” thành hiện thực đã bị cả thế giới lên án, ngăn chặn. Cho nên, Ông nói càn xiên, ngang ngược như thế nhằm mục đích tiếp tục thực hiện những âm mưu xâm chiếm lãnh thổ đất đai của người khác thành của Trung Quốc, mà Ông là đại diện lãnh đạo tối cao chưa làm được. Một người hay một đất nước như thế thì không chỉ khó kết bạn, mà còn có lẽ chẳng ai dám kết bạn!
Việt Nam đã và đang đấu tranh cả về chính trị, ngoại giao và pháp lý buộc Trung Quốc chấm dứt hành động ngang ngược của mình trên Biển Đông. Hành động của Việt Nam được các nước trên thế giới (trong đó có Mỹ, Pháp, Anh) các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới ủng hộ (trong đó có ASEAN). Việt Nam có đầy đủ các nguồn lực, biện pháp, trước hết là những biện pháp hòa bình để bảo vệ chủ quyền của đất nước.
Lời phát biểu càn xiên, ngang ngược của ông Tập Cận Bình đã và sẽ tiếp tục bị nhân dân Việt Nam, nhân dân Trung Quốc và nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới lên án, bác bỏ./.