TRE VIỆT - Trên trang Ba Sàm, ngày
23/9/2015, có bài viết: “Đàn áp vẫn gia tăng ở Việt Nam” do Trần Văn Minh dịch của
Zachary Abuza (được giới thiệu là giáo
sư tại Đại học Chiến
tranh Quốc gia , chuyên
nghiên cứu về các đề tài chính trị và an ninh Đông Nam Á), Guest
Contributor, New Mandela. Bài viết của Zachary Abuza tập trung phê phán về
quyền con người, chủ yếu là quyền tự do ngôn luận của Việt Nam . Ông ta
viết: “Trên nhiều phương diện, việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam vẫn không
thỏa đáng” và “Việt Nam là một trong những môi trường truyền thông bị kiểm soát
nhất trên thế giới” (!). Ông ta còn đoán già đoán non: “trước Đại hội Đảng thứ
12 vào đầu năm 2016, bất đồng quan điểm thậm chí còn ít được dung thứ hơn”(!).
Xin thưa, Việt Nam
chỉ bắt giam những người vi phạm pháp luật Nhà nước. Công dân Việt Nam
cũng như công dân nhiều nước khác, trong khi thực thi quyền con người thì phải
chấp hành pháp luật của nước mình. Điều này hoàn toàn đúng với các quy định của
“Bộ luật quốc tế về quyền con người”[1].
Bộ luật này quy định mỗi thành viên của xã hội trong khi thực hiện quyền con
người đều phải chấp hành luật pháp của mỗi nước.
Thật vậy, Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền đã nhấn mạnh trách
nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cá nhân đối với cộng đồng. Điều 29 quy định: “Trong
việc thụ hưởng các quyền và tự do, mỗi cá nhân chỉ có thể bị pháp luật hạn chế
các quyền và tự do đó vì các mục đích bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng các
quyền và tự do của người khác cũng như nhằm bảo đảm các yêu cầu về trật tự công
cộng, đạo đức và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”.
Điều 19, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, hiến định:
“1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không ai được can thiệp;
2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận…; 3. Việc thực hiện những quy định tại
mục 2 của điều này (Điều 19) kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt.
Do đó, có thể phải chịu một số hạn chế nhất định… để: Tôn trọng các quyền hoặc
uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe
hoặc đạo đức của công chúng”.
Trong “Tuyên bố Viên và Chương trình hành động”, cộng đồng quốc tế
cũng khẳng định: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể
chia cắt… Trong khi phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc và khu
vực về lịch sử, văn hóa và tôn giáo…”[2].
Công ước nhân quyền châu Âu có
hiệu lực từ ngày 03-9-1953 đã đưa ra các quy định về các quyền cơ bản của con
người; trong đó, quyền tự do ngôn luận được ghi ở Ðiều 10: “1. Tất cả mọi người
đều có quyền tự do bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm việc được tự do bày tỏ ý
kiến và tự do trao đổi các thông tin mà không cần phải nhận được bất kỳ việc cho
phép nào từ phía cơ quan công quyền và không phân biệt biên giới. 2. Việc thực
hiện các quyền nói trên, bao gồm cả các nghĩa vụ và trách nhiệm, hình thức,
điều kiện, các hạn chế hoặc các biện pháp trừng phạt cần phải được ghi rõ trong
các văn bản pháp luật có cân nhắc đến việc cần thiết đối với một xã hội dân
chủ, vì lợi ích đối với an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì trật tự
công cộng và ngăn ngừa tội phạm, bảo vệ sức khỏe và đạo đức, nhân phẩm hoặc
danh dự của con người, ngăn ngừa việc phát tán các thông tin mật hoặc để bảo
đảm quyền lực và tính độc lập của các cơ quan tư pháp”[3]. Rõ ràng, trong khi khoản
1 của Ðiều luật này quy định: ai cũng có quyền được bày tỏ, trao đổi quan điểm
của mình mà không phân biệt địa vị xã hội, giới tính, biên giới, thì khoản 2
lại quy định: việc thực thi các quyền đó gắn với các hạn chế được cụ thể hóa
trong pháp luật của mỗi quốc gia. Trên thực tế, mỗi quốc gia đều cân nhắc tình
hình thực tế của mình để đưa ra các đạo luật nhằm cụ thể hóa việc thực hiện
quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận của công dân nói riêng. Không
có thứ tự do
“tuyệt đối” mà không bị hạn chế vì những lợi ích nhiều mặt của quốc gia,
dân tộc, ở sự ổn định xã hội, mà thiếu nó thì mọi nỗ lực cố gắng của con người
đều trở nên vô nghĩa. Bởi vậy, Liên
minh châu Âu (gồm 28 quốc gia) cho phép các nước thành viên cân nhắc lợi ích
của mỗi quốc gia để đưa ra các quy định cụ thể, nhằm hướng dẫn công dân thực
hiện quyền con người; trong đó, có quyền tự do ngôn luận theo tinh thần Công
ước nhân quyền châu Âu nói trên.
Điều đó cho thấy, quyền con người luôn đặt trong môi trường hoàn
cảnh cụ thể. Thụ hưởng quyền con người còn tùy thuộc vào lịch sử, truyền thống,
văn hóa, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán,… cụ thể của từng nơi, của mỗi
quốc gia. Cho nên, không thể lấy những người vi phạm pháp luật bị bắt, bị giam
giữ cho rằng Việt Nam
“gia tăng đàn áp”. Đó là chỉ là sự định kiến, áp đặt mà thôi.
Nhân dịp 70 năm Quốc khánh, Việt Nam đã ân xá 18.298 phạm nhân;
trong đó, có những người bất đồng chính kiến, hoặc lợi dụng quyền tự do ngôn
luận để vi phạm pháp luật. Mới đây, là Trương Duy Nhất, Tạ Phong Tần, trước đó
là Nguyễn Văn Hải,… đã được tha tù chẳng nhẽ các vị không thấy sao?
Dù có phê phán
việc thực thi quyền con người ở Việt Nam, nhưng trong bài viết Zachary Abuza vẫn
phải thừa nhận: “về cơ bản, Việt Nam đã khác hơn so với ngay cả 5 năm trước
đây, với những thay đổi sâu sắc trong việc tiếp cận thông tin, quyền tự do kinh
tế, sự phát triển của xã hội dân sự, quyền thực hành đức tin, và những cải cách
gần đây”. Và rằng, “Việt Nam …
đã có một sự cải thiện có ý nghĩa trong năm qua”./.
[1] - Bao gồm Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người; Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị và hai nghị định thư bổ sung của công ước này.