Sep 24, 2015

LẠI LÀ SỰ ĐỊNH KIẾN

       TRE VIỆT - Trên trang Ba Sàm, ngày 23/9/2015, có bài viết: “Đàn áp vẫn gia tăng ở Việt Nam” do Trần Văn Minh dịch của Zachary Abuza (được giới thiệu là giáo sư tại Đại học Chiến tranh Quốc gia , chuyên nghiên cứu về các đề tài chính trị và an ninh Đông Nam Á), Guest Contributor, New Mandela. Bài viết của Zachary Abuza tập trung phê phán về quyền con người, chủ yếu là quyền tự do ngôn luận của Việt Nam. Ông ta viết: “Trên nhiều phương diện, việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam vẫn không thỏa đáng” và “Việt Nam là một trong những môi trường truyền thông bị kiểm soát nhất trên thế giới” (!). Ông ta còn đoán già đoán non: “trước Đại hội Đảng thứ 12 vào đầu năm 2016, bất đồng quan điểm thậm chí còn ít được dung thứ hơn”(!).
Xin thưa, Việt Nam chỉ bắt giam những người vi phạm pháp luật Nhà nước. Công dân Việt Nam cũng như công dân nhiều nước khác, trong khi thực thi quyền con người thì phải chấp hành pháp luật của nước mình. Điều này hoàn toàn đúng với các quy định của “Bộ luật quốc tế về quyền con người”[1]. Bộ luật này quy định mỗi thành viên của xã hội trong khi thực hiện quyền con người đều phải chấp hành luật pháp của mỗi nước.
Thật vậy, Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền đã nhấn mạnh trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cá nhân đối với cộng đồng. Điều 29 quy định: “Trong việc thụ hưởng các quyền và tự do, mỗi cá nhân chỉ có thể bị pháp luật hạn chế các quyền và tự do đó vì các mục đích bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng các quyền và tự do của người khác cũng như nhằm bảo đảm các yêu cầu về trật tự công cộng, đạo đức và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”.
Điều 19, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, hiến định: “1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không ai được can thiệp; 2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận…; 3. Việc thực hiện những quy định tại mục 2 của điều này (Điều 19) kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể phải chịu một số hạn chế nhất định… để: Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”.
Trong “Tuyên bố Viên và Chương trình hành động”, cộng đồng quốc tế cũng khẳng định: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt… Trong khi phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc và khu vực về lịch sử, văn hóa và tôn giáo…”[2].
Công ước nhân quyền châu Âu có hiệu lực từ ngày 03-9-1953 đã đưa ra các quy định về các quyền cơ bản của con người; trong đó, quyền tự do ngôn luận được ghi ở Ðiều 10: “1. Tất cả mọi người đều có quyền tự do bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm việc được tự do bày tỏ ý kiến và tự do trao đổi các thông tin mà không cần phải nhận được bất kỳ việc cho phép nào từ phía cơ quan công quyền và không phân biệt biên giới. 2. Việc thực hiện các quyền nói trên, bao gồm cả các nghĩa vụ và trách nhiệm, hình thức, điều kiện, các hạn chế hoặc các biện pháp trừng phạt cần phải được ghi rõ trong các văn bản pháp luật có cân nhắc đến việc cần thiết đối với một xã hội dân chủ, vì lợi ích đối với an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì trật tự công cộng và ngăn ngừa tội phạm, bảo vệ sức khỏe và đạo đức, nhân phẩm hoặc danh dự của con người, ngăn ngừa việc phát tán các thông tin mật hoặc để bảo đảm quyền lực và tính độc lập của các cơ quan tư pháp”[3]. Rõ ràng, trong khi khoản 1 của Ðiều luật này quy định: ai cũng có quyền được bày tỏ, trao đổi quan điểm của mình mà không phân biệt địa vị xã hội, giới tính, biên giới, thì khoản 2 lại quy định: việc thực thi các quyền đó gắn với các hạn chế được cụ thể hóa trong pháp luật của mỗi quốc gia. Trên thực tế, mỗi quốc gia đều cân nhắc tình hình thực tế của mình để đưa ra các đạo luật nhằm cụ thể hóa việc thực hiện quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận của công dân nói riêng. Không có thứ tự do “tuyệt đối” mà không bị hạn chế vì những lợi ích nhiều mặt của quốc gia, dân tộc, ở sự ổn định xã hội, mà thiếu nó thì mọi nỗ lực cố gắng của con người đều trở nên vô nghĩa. Bởi vậy, Liên minh châu Âu (gồm 28 quốc gia) cho phép các nước thành viên cân nhắc lợi ích của mỗi quốc gia để đưa ra các quy định cụ thể, nhằm hướng dẫn công dân thực hiện quyền con người; trong đó, có quyền tự do ngôn luận theo tinh thần Công ước nhân quyền châu Âu nói trên.
Điều đó cho thấy, quyền con người luôn đặt trong môi trường hoàn cảnh cụ thể. Thụ hưởng quyền con người còn tùy thuộc vào lịch sử, truyền thống, văn hóa, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán,… cụ thể của từng nơi, của mỗi quốc gia. Cho nên, không thể lấy những người vi phạm pháp luật bị bắt, bị giam giữ cho rằng Việt Nam “gia tăng đàn áp”. Đó là chỉ là sự định kiến, áp đặt mà thôi.
Nhân dịp 70 năm Quốc khánh, Việt Nam đã ân xá 18.298 phạm nhân; trong đó, có những người bất đồng chính kiến, hoặc lợi dụng quyền tự do ngôn luận để vi phạm pháp luật. Mới đây, là Trương Duy Nhất, Tạ Phong Tần, trước đó là Nguyễn Văn Hải,… đã được tha tù chẳng nhẽ các vị không thấy sao?
Dù có phê phán việc thực thi quyền con người ở Việt Nam, nhưng trong bài viết Zachary Abuza vẫn phải thừa nhận: “về cơ bản, Việt Nam đã khác hơn so với ngay cả 5 năm trước đây, với những thay đổi sâu sắc trong việc tiếp cận thông tin, quyền tự do kinh tế, sự phát triển của xã hội dân sự, quyền thực hành đức tin, và những cải cách gần đây”. Và rằng, “Việt Nam… đã có một sự cải thiện có ý nghĩa trong năm qua”./.


[1] - Bao gồm Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và hai nghị định thư bổ sung của công ước này.
2 - Viện nghiên cứu quyền con người - Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, H. 2002,  tr 44.
3 - Báo Nhân Dân, ngày 17-9-2013.

Nguyễn Hưng Quốc - Kẻ “đầu lú, nói càn”

Tre Việt - Ngày 07/9/2015, VOA (Tiếng Việt) đăng bài “Tính chính đáng của Đảng Cộng sản” của Nguyễn Hưng Quốc. Sau khi bàn nhăng cuội đủ chuyện, đưa ra nhận định vớ vẩn, ông ta kết luận đại ý rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam không có “tính chính đáng” về vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam ngày nay! Phải nói ngay rằng, cái đầu của Nguyễn Hưng Quốc bị “lú”, nên “nói càn”! Điều này, theo kiểu nói ví của người Việt, thì Nguyễn Hưng Quốc là kẻ đầu óc có vấn đề, ngớ ngẩn, ăn nói vớ vẩn, càn xiên. Vì sao nói vậy?
Xin thưa, cơ sở chính trị, xã hội và pháp lý về sự ra đời, lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được các nhà lịch sử, chính trị, xã hội, các học giả có uy tín ở trong nước và nước ngoài khẳng định, nên chẳng phải bàn nhiều. Tôi chỉ nhắc lại mấy vấn đề cơ bản để mở mang cái “đầu lú” của ông.
Về cơ sở chính trị, xã hội. Phải khẳng định ngay rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam sinh ra từ trong lòng nhân dân và tất cả đều vì dân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây cũng là kết quả của cuộc vận động vì dân chủ, đảm bảo cho giai cấp công nhân Việt Nam chính thức bước lên vũ đài chính trị lãnh đạo dân tộc đấu tranh với chế độ chuyên chế thực dân - phong kiến nhằm giành quyền làm chủ cho nhân dân - khát vọng dân chủ cháy bỏng của nhân dân.  Ra đời từ trong xã hội, do nhân dân lập nên, không vì mục đích tự thân mà là vì quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, nên Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân ủy thác quyền lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất và xây dựng đất nước, vì: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Với mục tiêu như vậy, nên “ý Đảng, lòng dân” hòa quyện làm một. Xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh cũng là khát vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam, là giá trị quy định bản chất của chế độ chính trị của Việt Nam hiện nay. Những luận điệu cố tình lu loa cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là tổ chức đại diện cho hơn 3 triệu đảng viên, chứ không thể đại diện cho toàn thể dân tộc Việt Nam(!) Hay, Đảng không thể và không có quyền đại diện cho xu hướng phát triển của dân tộc, nên không thể và không có quyền xác định mục tiêu phát triển cho dân tộc, v.v (!) Thực chất là cố tình chối bỏ sự thật lịch sử về sự vận động và phát triển của dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam! Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ mãi là trí tuệ, lương tâm, danh dự, luôn phấn đấu vì mục tiêu của toàn dân tộc và điều chủ yếu nhất là dân tộc Việt Nam tin tưởng trao cho Đảng quyền lãnh đạo đất nước. Đảng xứng đáng là lực lượng lãnh đạo, còn xuất phát từ việc tự nguyện làm “đầy tớ”, làm “công bộc”, làm “trâu ngựa” cho nhân dân. Nhờ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã huy động được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm nên những thắng lợi to lớn có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đưa dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ thành dân tộc bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Việt Nam trở thành một dân tộc tiên phong trên thế giới đấu tranh cho sự nghiệp phi thực dân hóa, xóa bỏ vết nhơ lớn nhất trong lịch sử loài người. Lịch sử đã khẳng định, thực dân - đế quốc là thế lực phản dân chủ, tiến hành xâm chiếm thuộc địa, đưa nhân dân thuộc địa vào cảnh nô lệ, lầm than. Nhưng, để lòe bịp thiên hạ, chúng luôn núp dưới chiêu bài “khai hóa văn minh”, “bảo vệ tự do”, “bảo vệ dân chủ” và trưng ra những thứ bánh vẽ dân chủ, trưng diện những trò chơi dân chủ. Nhân đây, cũng xin khẳng định rằng, là một đảng mác-xít – lê-nin-nít chân chính, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Đảng càng chứng tỏ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì nước ta càng phát triển vững chắc trên con đường xã hội chủ nghĩa để tiến lên cộng sản chủ nghĩa, mà đó cũng là quá trình tất yếu để các giai cấp và Đảng dần tự tiêu vong.
Về cơ sở pháp lý. Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2013 đã khẳng định rõ ràng bản chất cách mạng và hiến định rõ cả mục đích lẫn trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp cũng quy định rõ, các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Nên nhớ rằng, Hiến pháp là do nhân dân - người chủ đích thực của chế độ - xây dựng, thực hiện và bảo vệ, nên nhân dân chẳng những thừa nhận bản chất, vai trò, tôn vinh Đảng để Đảng có địa vị pháp lý vững chắc, mà còn bảo vệ Đảng. Điều đó, chứng tỏ một lần nữa về lý luận rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Hưng Quốc tự xưng là “Người Việt Nam yêu nước” thì hãy đọc Hiến pháp nước nhà và thực hiện theo Hiến pháp!
Hiện nay, đất nước Việt Nam đã và đang đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Để thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiến hành đại hội các cấp để tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Đây là đợt sinh hoạt dân chủ cao nhất của các tổ chức đảng, để không chỉ đánh giá đúng những thành tựu, mà còn chỉ rõ những hạn chế, khiếm khuyết, tìm ra nguyên nhân, rút ra những bài học để xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với lòng tin cậy, yêu mến của nhân dân. Vừa qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã công khai công bố Dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI trình Đại hội XII của Đảng để xin ý kiến đóng góp của nhân dân. Điều này, một lần nữa khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, mà còn là đội tiền phong của cả dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Bằng trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức trong sáng Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là một đảng cầm quyền “đạo đức, văn minh”.

Sức sống của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự đảm bảo cho chiều hướng phát triển bền vững của dân tộc Việt Nam trong suốt 85 năm qua. Đây là sự thật lịch sử mà không thế lực nào phủ nhận được! Mang danh là nguyên chủ bút của tạp chí Việt và đồng chủ bút của tờ báo mạng Tiền vệ, là chủ nhiệm Ban Việt học lại trường Đại học Victoria (Úc) thế mà “trí thức rởm” Nguyễn Hưng Quốc chẳng hiểu gì về lịch sử vận động và phát triển của Việt Nam và sự ra đời, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay. Vì thế, nói rằng, Nguyễn Hưng Quốc mang cái “đầu lú”, nên “nói càn” chẳng sai chút nào!