Tre Việt - Vừa qua, trên trang “voatiengviet” đã đăng bài viết: “CIVICUS (Liên minh toàn cầu vì sự tham gia của công dân): Quyền tự do dân chủ ở Việt Nam “bị đóng kín’ trong năm 2023” với nhận định xuyên tạc về quyền tự do tiếp cận thông tin ở Việt Nam cũng như những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam nhằm bảo vệ quyền tự do thông tin của nhân dân, cho rằng: “Tại Việt Nam, hàng trăm trang web đã bị chặn và chính quyền đã gây áp lực lên các nền tảng truyền thông xã hội để tăng cường kiểm duyệt các bài đăng “chống nhà nước”. Đây lại là trò “mượn cớ” quyền tự do, dân chủ để chống phá Việt Nam của cái gọi là nhân danh “tổ chức CIVICUS”.
(Ảnh: sưu tầm trên nhanvanviet.com)
Xin
nhắc để “CIVICUS” và các “nhà dân chủ” rõ: Khoản 2, Điều 29 Tuyên ngôn Quốc tế
nhân quyền năm 1948 nêu rõ: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai
cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra nhằm bảo đảm những quyền tự
do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về
đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được
thỏa mãn”. Trên thế giới, các quốc gia tuy có cách tiếp cận không giống nhau về
quyền tự do dân chủ; nhất là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, nhưng đều có
một nguyên tắc cơ bản là việc thực thi quyền tự do dân chủ, trong đó có quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí phải phù hợp với tình hình, điều kiện lịch sử,
văn hóa, trình độ dân trí, thể chế chính trị của mỗi nước và không được phép
lợi dụng quyền cơ bản này để xâm hại lợi ích quốc gia-dân tộc, làm phương hại
danh dự, nhân phẩm người khác và ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức cộng đồng, trật
tự xã hội. Điều 11, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của nước
Pháp đã quy định: “… bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự
do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy
định của pháp luật”. Nước Mỹ tuy không ban hành luật riêng về báo chí, nhưng có
nhiều điều luật khác của quốc hội, quy định có tính pháp lý của tòa án cũng đưa
ra những giới hạn nhất định đối với báo chí, đối với quyền và trách nhiệm của
công dân liên quan đến báo chí nhằm tránh xâm hại đến an ninh quốc gia. Thực
tiễn trên cho thấy, mọi quyền tự do, trong đó có tự do ngôn luận, tự do
báo chí đều phải có giới hạn nhất định. Giới hạn này đặt ra để bảo đảm quyền tự
do chính đáng cho số đông mọi người, chứ không phải cho một nhóm ít người nào
đó nói năng bừa bãi, phát ngôn bạt mạng, thích gì viết đấy, nói và viết chỉ vì
động cơ cá nhân ích kỷ, thiên vị mà không vì sự ổn định, đồng thuận chung của
xã hội, cộng đồng. Như vậy, khi được hưởng quyền, thì đồng thời phải thực hiện
nghĩa vụ của mình trong thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận. Và có
thể khẳng định rằng: không thể có tự do ngôn luận, tự do báo chí “vô chính
phủ”, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Điều này là một lẽ hiển nhiên
không riêng ở Việt Nam.
Là
quốc gia thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc, Việt Nam đã sớm tham gia,
ký kết các điều ước quốc tế về bảo đảm các quyền cơ bản của con người và quyền
công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Những quyền cơ bản
này đã được hiến định xuyên suốt trong các bản hiến pháp của Việt Nam. Tại Điều
25 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định”. Để bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí
được thực hiện trong thực tiễn cuộc sống, năm 2016, Quốc hội Việt Nam đã ban
hành Luật Tiếp cận thông tin và Luật Báo chí. Trong đó, Điều 3 Luật Tiếp
cận thông tin quy định: Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử
trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải
chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi
cho công dân; Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh
sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã
hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Điều 10 của luật này
cũng quy định công dân có quyền tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà
nước công khai, đồng thời được yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin. Về quyền tự do ngôn luận trên báo chí
của công dân được quy định tại Điều 11 Luật Báo chí năm 2016 với ba nội dung cụ
thể, gồm: (1). Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; (2). Tham
gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; (3). Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên
báo chí đối với các tổ chức và cá nhân. Và, Điều 13 luật này nêu rõ: “Nhà nước
tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do
ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; báo chí,
nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai
được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân;
báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”. Điều này
cho thấy: về mặt pháp lý, quyền tự do dân chủ nói chung, quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin nói riêng của công dân ở Việt Nam đã
được quy định toàn diện, đầy đủ, với những nội dung cụ thể, dễ hiểu, dễ áp
dụng, dễ thực hiện trong cuộc sống.
Trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định
việc bảo đảm, thực thi quyền tự do dân chủ nói chung, quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí nói riêng ở Việt Nam là một trong những giải pháp quan trọng để khơi
dậy, phát huy ý chí, nguyện vọng, trí tuệ, sức mạnh tinh thần của mọi tầng lớp
nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Mặt khác, trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam luôn có
tinh thần cầu thị, tích cực tiếp thu, học hỏi, tham khảo những kinh nghiệm tiến
bộ của các quốc gia khác để thực hiện ngày càng tốt hơn quyền tự do dân chủ, tự
do ngôn luận, tự do báo chí cho đại đa số người dân.
Hiện
nay, nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đang phải đối mặt với
vấn nạn tin giả tràn lan trên mạng xã hội. Phần lớn những tin giả này xuất phát
từ những người lợi dụng tự do ngôn luận để lan truyền thông tin sai trái, thất
thiệt, tác động tiêu cực đến dư luận xã hội và an ninh truyền thông. Do đó,
ngăn chặn, xử lý những đối tượng gây ra nạn “hoang tin” trên mạng xã hội chính
là góp phần bảo đảm sự trong sạch của môi trường thông tin, qua đó góp phần giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Như
vậy, nhận định CIVICUS mà đài VOA đăng tải là nhận định hoàn toàn sai trái sặc
mùi phản động, cố tình xuyên tạc sự thật, nói xấu chế độ mà Đảng, Nhà nước và Nhân
dân Việt Nam đang ra sức xây dựng. Chúng ta cần nêu cao cảnh giác và đấu tranh
kiên quyết với những nhận định sai trái nêu trên./.