Tre Việt – Ngày 18/3, trang facebook Đài Á châu tự do (RFA) đăng bài: “Tản mạn về hạnh phúc tại Việt Nam nhân Ngày Quốc tế hạnh phúc 20/3” của Thanh Trúc, trong bài viết, họ xuyên tạc: “Việt Nam có hạnh phúc nhưng là thứ hạnh phúc tưởng tượng và rất kêu trên giấy tờ… Quốc hiệu Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đi kèm Độc lập - Tự do - Hạnh phúc đều là biểu tượng dối trá”.
Cần khẳng định: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc luôn là mục
tiêu và sự lựa chọn của các quốc gia, dân tộc. Trải qua các cuộc kháng chiến
giành, giữ và bảo vệ đất nước trong lịch sử, dân tộc Việt Nam đã hiểu rõ giá trị
của Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Vì vậy,
dân tộc Việt Nam lựa chọn Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc gắn liền với Quốc hiệu, gắn liền với xây dựng chủ
nghĩa xã hội là tất yếu khách quan và là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt
Nam. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh: từ một nước bị thống trị, không
có tên trên bản đồ thế giới, nhưng với sự đoàn kết, đồng lòng, quyết tâm của cả
dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Việt Nam đã trở thành quốc gia độc lập, người dân được tự do, làm chủ vận mệnh
của dân tộc mình và được hưởng hạnh phúc. Điều đó đã được cộng đồng quốc tế ghi
nhận là một trong những nước tiên phong và là điểm sáng về phát triển con người,
thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói, giảm nghèo, tiến bộ và công bằng
xã hội, v.v.
Chỉ số hạnh phúc hành tinh được
chọn lọc từ các quốc gia, các tổ chức quốc tế và các số liệu do Tổ chức nghiên
cứu kinh tế xã hội New Economics Foundation (NEF) có trụ sở chính tại Vương quốc
Anh điều tra, công bố, thì từ bảng xếp hạng năm 2006, Việt Nam đứng ở vị
trí số 12 trên thế giới - cao nhất châu Á. Còn, kết quả xếp hạng trong Báo cáo
Hạnh phúc thế giới được biên soạn hàng năm bởi cơ quan Mạng lưới Giải pháp phát
triển bền vững của Liên hợp quốc công bố, Việt Nam nhiều lần đạt chuẩn quốc gia
hạnh phúc. Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 94 trong bảng xếp hạng và lần đầu tiên lọt
vào top 10 quốc gia tốt nhất cho những người nước ngoài sống và làm việc, theo
báo cáo HSBC Expat 2019 được HSBC công bố. Đến năm 2021, đã tăng hạng từ thứ 83
lên 79. Đồng thời, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam từ nhóm trung
bình lên nhóm có HDI cao của thế giới. Các chỉ số thành phần cũng có bước cải
thiện đáng kể, đơn cử như chỉ số sức khỏe tăng từ 0,822 năm 2016 lên 0,826 năm
2020. Chỉ số giáo dục tăng tương ứng từ 0,618 lên 0,640 và chỉ số thu nhập tăng
tương ứng từ 0,624 lên 0,664. Bà Caitlin Wiesen - Trưởng Đại diện thường trú
Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, ca ngợi: Việt Nam đạt được mức phát triển con người
cao là một thành tựu đáng ghi nhận và cũng tạo cơ hội cho sự phát triển tốt hơn
và nhanh hơn trong giai đoạn tới. Ông Ousmane Dione - Giám đốc quốc gia của
Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Việt Nam thì nhận định: các chính sách kinh tế và xã hội của Việt
Nam đã giúp đạt được những kết quả to lớn trong mục tiêu giảm nghèo và nâng cao
chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người. Việt Nam cũng được đánh giá cao
về dịch vụ công, năm 2020, nước ta đã có 09 bác sĩ và 28 giường bệnh trên
một vạn dân; 91% dân số đã tham gia bảo hiểm y tế. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ
em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 03 lần trong hơn 35 năm qua. Tuổi thọ
trung bình của người dân tăng từ 62 tuổi (năm 1990) lên 73,7 tuổi (năm 2020).
Theo Báo cáo cập nhật tháng 4/2021 của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam: chỉ
số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân của Việt Nam là 73 - cao hơn mức
trung bình của khu vực và thế giới. Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu
học (năm 2000) và trung học cơ sở (năm 2010); 95% người lớn biết đọc, biết viết;
số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Đời sống vật
chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện đáng kể; sinh hoạt
văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà
ở năm 2019, tiện nghi sinh hoạt của hộ dân cư đã được cải thiện với 91,9% hộ có
sử dụng ti vi; 91,7% hộ có sử dụng điện thoại (cố định, di động) hoặc máy tính
bảng; 30,7% hộ có sử dụng máy vi tính (gồm máy để bàn, laptop). Hiện nay, Việt
Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế
giới, có khoảng 70% dân số sử dụng internet. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm
1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 03% năm
2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước); người nghèo và trẻ em
dưới 06 tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí, v.v.
Đặc biệt, trước diễn biến phức tạp
của dịch Covid-19, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người
lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, trong đó
có các chính sách hỗ trợ tiền mặt trực tiếp cho người lao động bị mất việc, ngừng
việc, phải tạm hoãn hợp đồng lao động và tự do, như: ban hành các gói hỗ trợ
62.000 tỷ đồng (năm 2020) và 26.000 tỷ đồng (tháng 7/2021) dành cho người khó
khăn vì dịch Covid-19. Việt Nam cũng đã triển khai nhiều biện pháp bảo đảm quyền
tiếp cận, các điều kiện sống cơ bản, tạo thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức,
cá nhân trong xã hội cùng chung tay hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn.
Thực tiễn sinh động trên, tự nó
bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của RFA và Thanh Trúc. Đồng thời, là minh chứng khẳng định: đất nước, con người Việt Nam
đang rất hạnh phúc. Mọi người dân Việt Nam cần tin tưởng vào đường lối, chính
sách bảo đảm dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc của Đảng, Nhà
nước, kiên quyết đấu tranh với luận điệu xuyên tạc về bảo đảm độc lập, tự do, hạnh
phúc ở Việt Nam./.