Trong thời gian gần đây, một số luận điệu thù địch đã cố tình phủ nhận mối quan hệ hữu nghị Việt Nam - Cuba, cho rằng đó chỉ là “khẩu ngôn cộng sản” giữa những người cầm quyền, không liên quan đến nhân dân. Cách suy diễn này không chỉ sai lầm mà còn là sự xúc phạm đối với lịch sử và đạo lý vốn trường tồn của cả hai dân tộc.
Trước hết, cần khẳng định rõ: tình cảm gắn
bó giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Cuba là chân thực, được hình thành và thử
thách qua những giai đoạn khó khăn nhất. Khi bom đạn Mỹ trút xuống miền Bắc,
khi chiến trường miền Nam ngùn ngụt lửa khói, chính Cuba đã cử hàng trăm bác
sĩ, chuyên gia sang Việt Nam. Họ không chỉ làm việc tại bệnh viện Đồng Hới, Hà
Tĩnh, Quảng Bình mà còn trực tiếp chia sẻ hiểm nguy nơi tuyến lửa. Đây không phải
là “khẩu hiệu chính trị” mà là sự sẻ chia máu thịt, một minh chứng sống động
cho câu ca dao Việt Nam: “Lá lành đùm lá rách”. Một dân tộc cách nửa vòng
trái đất, không có lợi ích vật chất gì, đã dốc lòng giúp Việt Nam - nếu không
phải tình nghĩa anh em, thì là gì?
Khi Chủ tịch Fidel Castro khẳng định
quan hệ Việt Nam - Cuba là “hình mẫu quốc tế không tiền lệ”, ông không nói theo
lối tu từ trống rỗng. Trong quan hệ quốc tế hiện đại, hiếm có hai dân tộc nào
xa cách về địa lý, khác biệt về văn hóa, nhưng lại đồng hành bền chặt đến vậy
trong cuộc chiến sinh tử vì độc lập dân tộc. Sự độc đáo ấy chính là “hình mẫu”
để các dân tộc khác noi theo. Việc vặn vẹo câu chữ, cho rằng “không tiền lệ thì
làm sao là hình mẫu”, chỉ cho thấy sự cố chấp và thiếu thiện chí, cố tình phủ
nhận giá trị lịch sử.
Đáng phê phán hơn là luận điệu xuyên tạc
cho rằng Cuba “vi phạm lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa” khi giúp ta mở đường Trường
Sơn, hoặc cho rằng bác sĩ Cuba cứu chữa thương binh miền Bắc là “không đáng ghi
ơn”. Đây là cách bóp méo bối cảnh lịch sử. Cần nhắc lại: chính quyền Sài Gòn
khi đó không phải là đại diện hợp pháp của cả dân tộc, mà là một thể chế lệ thuộc
vào Mỹ. Trong khi đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam mới là lực lượng thể hiện nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Cuba đã
đứng về phía chính nghĩa, sát cánh cùng Việt Nam trong khát vọng thống nhất. Việc
viện trợ, hỗ trợ y tế và mở tuyến đường huyết mạch không hề là “xâm phạm lãnh
thổ” mà là sự đồng hành với công lý, góp phần quyết định để dân tộc Việt Nam
giành thắng lợi.
Tình hữu nghị Việt - Cuba cũng không chỉ
dừng ở chiến tranh. Sau 1975, Cuba tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong xây dựng đất
nước. Những công trình như Bệnh viện Đồng Hới, Khách sạn Thắng Lợi ở Hà Nội
không chỉ là công trình kiến trúc, mà là biểu tượng hữu hình của tình bạn. Người
dân Quảng Bình, người dân Hà Nội đều từng trực tiếp hưởng lợi từ các công trình
ấy. Nói rằng tình hữu nghị này chỉ là sản phẩm chính trị của “phe cộng sản” là
cố tình phủ nhận trải nghiệm và ký ức của hàng triệu người dân Việt Nam.
Không thể phủ nhận rằng quan hệ Việt -
Cuba là mối quan hệ đặc biệt, hiếm có trong lịch sử thế giới. Nó không phải là
tài sản riêng của bất kỳ tổ chức chính trị nào, mà là giá trị chung của hai dân
tộc. Chính điều đó khiến mọi âm mưu xuyên tạc đều trở nên lạc lõng. Bởi thực tiễn
đã chứng minh: tình bạn Việt - Cuba không chỉ sống trong lời nói của lãnh tụ,
mà sống trong trái tim của những người dân bình thường - từ bác sĩ Cuba ở Quảng
Bình, đến bộ đội, thương binh, nhân dân Việt Nam từng được họ cứu giúp.
Những ai rêu rao rằng nhân dân không cần
biết ơn Cuba, rằng tất cả chỉ là “nợ nần giữa cộng sản với nhau”, thực chất
đang tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết, phá hoại mối quan hệ quốc tế chân
thành. Nhưng lịch sử và thực tế đã, đang và sẽ tiếp tục bác bỏ những luận điệu
đó.
Quan hệ Việt - Cuba chính là hiện thân của
tình nghĩa “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn”. Xa nhau nửa vòng trái đất, khác châu lục, khác ngôn ngữ, nhưng hai dân tộc
lại chung nhịp đập vì độc lập, tự do và hạnh phúc. Đó là sự thật không một luận
điệu xuyên tạc nào có thể phủ nhận./.
(Trích nguồn:
nhanquyenvn.org)