Apr 29, 2015

MỘT ĐẠO LUẬT PHI LÝ

           Tre Việt - Ngày 22-4-2015, Quốc hội Ca-na-đa đã thông qua Đạo luật S-219 do Ngô Thanh Hải, một Thượng nghị sĩ gốc Việt bảo trợ. Đây là việc làm bình thường của các quốc gia độc lập có chủ quyền, nhằm điều chỉnh các quan hệ trong quốc gia. Tuy nhiên, với cái cớ tưởng nhớ đến những “thuyền nhân” di tản và coi ngày 30-4 hằng năm là ngày của “hành trình đến tự do”, Đạo luật S-219 mà Quốc hội Ca-na-đa thông qua là một đạo luật phi lý, xuyên tạc tình hình thực tiễn, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Vì sao nói vậy?
Cách đây 40 năm, ngày 30-4-1975 chính quyền ngụy Sài Gòn sụp đổ, đầu hàng vô điều kiện, miền Nam Việt Nam được giải phóng khỏi ách đô hộ của đế quốc Mỹ xâm lược, đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Ngày 30-4-1975, là ngày chiến thắng của chính nghĩa với phi nghĩa, bạo tàn; là ngày chiến thắng của quá trình đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì quyền tự quyết dân tộc, vì quyền con người. Đây là sự thực lịch sử mà chẳng thế lực nào có thể phủ nhận. Sau ngày 30-4-1975, dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập hoàn toàn, chính quyền cách mạng đã thực thi hàng loạt chính sách tiến bộ để ổn định cuộc sống của nhân dân. Cái gọi là “cuộc tắm máu” theo tuyên truyền của Mỹ đã không xảy ra; mỗi người dân Việt Nam đều nhanh chóng bắt tay vào lao động, sản xuất, ổn định cuộc sống tự do, hạnh phúc mới giành được của mình. Tuy nhiên, một số ít cá nhân bị luận điệu tuyên truyền của Mỹ tẩy não, hoặc những kẻ có nợ máu với nhân dân,… đã tìm mọi cách để chạy ra nước ngoài, trong đó có Ca-na-đa. Với chính sách nhân đạo, hòa hợp, hòa giải dân tộc, trong 40 năm qua, Nhà nước Việt Nam đã tích cực thông tin đến người Việt ở nước ngoài về tình hình phát triển của đất nước và có nhiều chính sách để họ được về thăm quê hương. Hiện nay, cộng đồng người Việt ở Mỹ, Ca-na-đa, Đức, Anh, Pháp,… đều hiểu rõ điều đó, họ đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước. 
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối, về những sai trái của Đạo luật này, xem đây là một việc làm “hoàn toàn sai trái… ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ đang phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Ca-na-đa, xúc phạm tình cảm của nhân dân Việt Nam cũng như một bộ phận lớn cộng đồng người Việt tại Ca-na-đa”. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Mất lòng trước hơn được lòng sau”, với mong muốn không để Đạo luật này tác động xấu đến quan hệ giữa hai nước và nhất là không để lặp lại những sai lầm mới, thiết tưởng cần thẳng thắn chỉ ra những sai trái của việc làm này.
Không chỉ xuyên tạc sự thật, Đạo luật S-219 còn đi ngược lại lợi ích giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Ca-na-đa. Trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, nhiều thế hệ nhân dân Ca-na-đa đều ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Đạo luật S-219 đã xúc phạm tình cảm, đạo đức của nhân dân Ca-na-đa. Hiện nay, quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội giữa Việt Nam và Ca-na-đa đang trên đà phát triển tốt đẹp, vì lợi ích chính đáng của hai nước. Nên, Đạo luật S-219, đã làm tổn hại đến lợi ích của hai quốc gia, tổn hại đến uy tín, sự hợp tác của Ca-na-đa và Việt Nam, làm chia rẽ nhân dân Ca-na-đa và cộng đồng người Việt ở nước này. Phát biểu với báo chí Ca-na-đa, Thượng nghị sĩ James Cowan cho rằng, Ông không thể hiểu được vì sao “Chính phủ Ca-na-đa có thể phê chuẩn một dự luật gây tranh cãi như vậy trong lúc chúng ta muốn tăng cường quan hệ kinh tế với châu Á, trong đó có Việt Nam… Chúng ta đang nỗ lực cải thiện quan hệ với Việt Nam. Chúng ta đã ký một biên bản ghi nhớ về tăng cường liên kết thương mại và văn hóa. Tại sao các vị lại muốn khơi lên sự chia rẽ này”. Quốc hội Ca-na-đa, qua Đạo luật S-219 đã làm tổn hại đến chính dân tộc, đất nước mình.
Cùng với đó, Đạo luật này đã góp phần chia rẽ cộng đồng người Việt ở Ca-na-đa và nhân dân Việt Nam. Với chỉ có 05% người Việt ở Ca-na-đa đồng quan điểm với Đạo luật S-219, có nghĩa Đạo luật này chỉ đáp ứng của một số nhỏ người Việt ở Ca-na-đa. Đây chính là những người vẫn bám giữ hận thù trong thời kỳ chiến tranh, luôn chống đối Việt Nam. Xuân Ất Mùi - 2015, hàng trăm Việt kiều ở Ca-na-đa đã về nước, nhiều người vui mừng khi chứng kiến đất nước ngày càng phát triển và không ít người bày tỏ mong muốn được trở về quê hương làm ăn, sinh sống, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước. Có thể khẳng định rằng, Đạo luật S-219 đã tiếp tục khơi sâu hận thù, “phớt lờ” lợi ích và tình cảm của lớp trẻ, phục vụ cho lợi ích chính trị ích kỷ của một số nhỏ người Việt ở Ca-na-đa. Thực tế cho thấy, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Ca-na-đa đã được thiết lập hơn 40 năm (từ năm 1973) và liên tục được củng cố và phát triển. Năm 2013, kim ngạch hai chiều đạt 2,5 tỷ USD. Việt Nam hiện nằm trong danh sách ưu tiên của chiến lược Hành động thị trường toàn cầu, chiến lược Giáo dục quốc tế và Chương trình phát triển quốc tế của Ca-na-đa. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, “đa dạng hóa, đa phương hóa” với các nước trên thế giới vì lợi ích mỗi bên, vì hòa bình, phát triển của thế giới, Việt Nam luôn luôn coi trọng quan hệ hữu nghị và hợp tác với Ca-na-đa. Đồng thời, ủng hộ chính sách chuyển hướng sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Ca-na-đa và hoan nghênh sự đóng góp của Ca-na-đa cho hòa bình, ổn định và phồn vinh trong khu vực. Như vậy, Đạo luật S-219 đã đi ngược lại lợi ích của cả hai quốc gia.
Ngày nay, tất cả các quốc gia đều có quyền dân tộc tự quyết, về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Các quốc gia, kể cả Liên hợp quốc, cũng phải tôn trọng quyền này. Đạo luật S-219 thể hiện rõ sự kỳ thị với chế độ xã hội do nhân dân Việt Nam đã lựa chọn. Người bảo trợ Đạo luật S-219 (Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải) vốn là một người đã chạy ra nước ngoài sau 30-4-1975, luôn bám giữ tư duy cổ hủ, lạc hậu của thời kỳ chiến tranh lạnh, kỳ thị với chế độ chính trị của Việt Nam. Thực ra, Ông ta luôn là một kẻ bảo trợ cho các hoạt động chống cộng, chống Việt Nam, nên ông ta chẳng quan tâm đến thực tế khách quan, chỉ lấy thông tin một chiều từ thiểu số những kẻ chống cộng.
Thực tế cho thấy, sau 40 năm giành độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc về mọi mặt. Với đường lối đối ngoại là: sẵn sàng phát triển quan hệ với tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, hệ tư tưởng,… trên cơ sở tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của nhau và hai bên cùng có lợi, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác với hơn 180 quốc gia, trong đó có đầy đủ các thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Nền kinh tế Việt Nam, được các quốc gia, các tổ chức tài chính, kinh tế lớn trên thế giới đánh giá là năng động, sáng tạo. Hàng loạt các hiệp định kinh tế giữa các nước lớn, vùng lãnh thổ,… đã ký kết với Việt Nam. Việt Nam cũng là điểm đến của các nguồn vốn, như: ODA, FDI,… và đã, đang phát triển mạnh mẽ cả về thế và lực trong xu thế phát triển văn minh của nhân loại. Ngô Thanh Hải - người bảo trợ Đạo luật S-219 - cũng như người ủng hộ nó đang đi ngược lại xu hướng chung của nền văn minh nhân loại. Và như thế, hành động can thiệp vào nội bộ Việt Nam nhất định sẽ bị nhân dân Việt Nam, nhân dân Ca-na-đa và cộng đồng quốc tế lên án.
Đạo luật S-219 do Quốc hội Ca-na-đa thông qua ngày 22-4-2015 là một Đạo luật phi lý./.

THỪA GIẤY VẼ VOI

Tre Việt - Đã tròn 40 năm trôi qua, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 toàn thắng là một sự kiện lịch sử trọng đại, một đề tài vô cùng phong phú cho nhiều cuộc hội thảo, công trình khoa học, lĩnh vực mà nhiều giới, nhiều ngành trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Cũng chính vì sự vĩ đại, chiến công vô cùng oanh liệt ấy nên còn nhiều giá trị phải được nghiên cứu, bàn thảo, tiếp tục khẳng định và làm sáng tỏ thêm để đánh giá đầy đủ, đúng đắn tầm vóc và ý nghĩa lịch sử to lớn của Chiến thắng đó đối với dân tộc và thời đại.

Trong khi cả Dân tộc đang tràn ngập niềm vui, cờ hoa rực rỡ phố phường, thôn xóm khắp dải đất hình chữ S thanh bình, thì Giáo sư Tương Lai - vị Giáo sư tự phong, vì Ông chỉ là Phó giáo sư thôi, như thế cũng đủ biết tư cách của Ông - chuyên viết bài phản biện chính trị, xã hội và giáo dục trên mạng lại đi ngược với trào lưu trên. Ông đã mượn những tác phẩm của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để phản biện chính trị, xã hội. Khổ thật cho ông bởi có chút “trình độ, học vấn” nên giấy còn chẳng biết làm gi, đành phải vẽ voi cho kín.

Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có khoảng 600 tác phẩm; trong đó, khoảng hơn 230 tác phẩm được đông đảo công chúng biết đến với cả phần lời và nhạc. Các bài hát Ông sáng tác phần lớn là tình ca. Tuy nhiên, nhiều ca khúc của Ông sáng tác trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, cứu nước có thông điệp phản chiến bị cả chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa  Việt Nam cộng hòa cấm biểu diễn. Mặc dù, gần đây - sau ngày đất nước giải phóng - một số ca khúc của Ông được đông đảo tầng lớp nhân dân đón nhận, nhất là giới trẻ, tiêu biểu là ca khúc “Nối vòng tay lớn”.
Ca khúc này được nhiều tầng lớp nhân dân đón nhận như một món quà Nhạc sĩ tặng cho các buổi giao lưu, hội họp, thể hiện sự đoàn tụ trong gia đình Việt. Gần đây, trong buổi tưởng niệm Trịnh Công Sơn của những người hâm mộ ở Huế tại Gác Trịnh, trường Đại học Khoa học Huế với đêm nhạc “14 năm nhớ Trịnh Công Sơn - Hành trình nối vòng tay lớn” mà “Tuổi Trẻ” đã tường thuật.
Nhưng cũng thật đáng tiếc, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo, các ca khúc của Trịnh Công Sơn không được chấp nhận. Bởi lẽ, lời các ca khúc của Ông đều mang tính ủy mỵ, làm nhụt ý chí chiến đấu của chiến sĩ trên chiến trường. Riêng ca khúc Nối vòng tay lớn tuy nhạc và lời rất nhộn, vui lại thể hiện tinh thần đoàn tụ, gắn bó với nhau, nhưng vào thời điểm đó thì chưa phù hợp. Bởi vì, sau thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954) miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn nằm dưới sự kiểm soát của thực dân Pháp, Đảng và Bác Hồ muốn hòa hợp dân tộc bằng cuộc Tổng tuyển cử trên khắp cả nước. Nhưng không, Ngô Đình Diệm và bè lũ tay sai được Mỹ hà hơi, tiếp sức đã ngang nhiên phá hoại và tạo cớ để Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam. Và nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam là phải “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.

Lợi dụng ngày giỗ (01/4 tức 08/3 âm lịch) của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, những ngày tháng 3, tháng 4 vừa qua, trên mạng xuất hiện nhiều bài viết tạo ra Hiện tượng Trịnh Công Sơn của Trịnh Vĩnh Trinh, Cao Huy Thuần và nổi hơn là Giáo sư Tương Lai - người tự cho mình có quyền phản biện xã hội đã chắp bút, thêm mắm muối - không ngớt là ca tụng các ca từ trong từng tác phẩm của Nhạc sĩ. Bên cạnh đó, cũng khéo léo cài vào những cụm từ nói xấu, bôi nhọ Đảng, chế độ.

Trong chiến tranh vấn đề công tác lý luận, công tác chính trị, tư tưởng có vị trí vô cùng quan trọng không kém gì súng, đạn, thậm trí nó có tác dụng rất lớn như những khẩu đại bác, một binh đoàn hùng mạnh. Bởi vậy, công tác sáng tác văn học, hay sáng tác các ca khúc phục vụ chiến tranh đã được coi trọng, nhằm tuyên truyền, xây dựng niềm tin chiến thắng, thúc giục tinh thần chiến đấu cho binh lính được cả hai bên triệt để thực hiện.

Thực tế, tại thời điểm đó, Đảng, Nhà nước và Quân đội ta đang phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và thời đại để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thì công tác văn hóa, văn nghệ là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu nhiều ca khúc cách mạng đã được các nhạc sĩ sáng tác nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, thúc giục tinh thần toàn dân tộc tiến lên giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Những ca khúc cách mạng đã được các chiến sĩ văn công mang vào khắp các chiến trường, trận địa phục vụ bộ đội - tiếng hát át tiếng bom.    

Có thể nói, những ca khúc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ là những tác phẩm đạt đến trình độ cao cả về mặt nghệ thuật và nội dung, với nhiều mảng đề tài như về Tổ quốc, về Đảng, lực lượng vũ trang, về tình yêu, về quê hương, đất nước, con người phản ánh được các sự kiện nổi bật, các mốc lịch sử quan trọng. Nhiều tác phẩm trong giai đoạn này đều mang cả tính lãng mạn cách mạng, đậm màu sắc hào hùng, phóng khoáng có tác dụng cảm hóa lòng người, động viên tinh thần của biết bao chiến sĩ. Hình tượng người chiến sĩ trong các ca khúc cách mạng mạnh mẽ nhưng không khô cứng, trữ tình bay bổng nhưng không ủy mỵ. Mỗi ca khúc sáng tác trong những năm tháng chống Mỹ ác liệt đều thể hiện phong cách riêng của từng tác giả, nhưng tựu trung là mang đậm tính cách mạng, tính khoa học và tính nhân dân sâu sắc. Một số ca khúc tiêu biểu của Nhạc sĩ Huy Du: Anh vẫn hành quân (năm 1964), Bạch Long Vĩ đảo quê hương (năm 1965), Chưa hết giặc ta chưa về (năm 1965), Có chúng tôi trên hải đảo xa xôi (năm 1965), Cùng anh tiến quân trên đường dài (năm 1967), Nổi lửa lên em (năm 1968), Đường chúng ta đi (năm 1968), Trên đỉnh Trường Sơn ta hát (năm 1971), v.v.
Vậy thì cớ sao, Giáo sư lại chọn những ca khúc (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, Trong nỗi đau tình cờ, Tôi ơi đừng tuyệt vọng,…) của Trịnh Công Sơn có ca từ ủy mỵ, làm nhụt ý chí chiến đấu của binh lính khi cuộc cách mạng đang ở giai đoạn quyết liệt; thậm chí chính quyền Việt Nam cộng hòa cũng cấm những ca khúc này. Vậy, có phải trong sâu thẳm tâm thức của Giáo sư có uẩn khúc gì với Đảng, Nhà nước và Dân tộc, nên thời gian này lại đổ đốn như vậy. Nếu nguồn tài nguyên trong Ông đã cạn kiệt thì Tre Việt khuyên Ông nên vẽ voi cho kín là được chẳng ai chê cười Giáo sư?