TRE VIỆT - “Đáng tiếc Báo cáo tự do Tôn giáo quốc tế
2014 của Hoa Kỳ, mặc dù đã ghi nhận những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực
này, vẫn tiếp tục đưa ra một số đánh giá không khách quan, trích dẫn những
thông tin sai lệch về Việt Nam”. Đó là khẳng định, của Người phát ngôn Bộ Ngoại
giao Việt Nam Lê Hải Bình, tại cuộc họp báo thường kỳ ngày 15/10 vừa qua, phản
đối Phúc trình hằng năm về tự do tôn giáo thế giới, của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công
bố ngày 14/10/2015.
Điều 24, Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà
nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm
pháp luật”.
Quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của người dân Việt Nam được cụ thể hóa trong nhiều văn
bản pháp quy khác. Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo có hiệu lực từ 15/11/2004, đã
thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà
nước Việt Nam, bảo đảm cho công dân thực hiện quyền về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo. Ngày 01/3/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định 22/2005/NĐ-CP để hướng
dẫn một số điều trong Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo. Trên cơ sở đánh giá thực
tiễn hoạt động tôn giáo tại Việt Nam, tháng 11/2012, Việt Nam đã ban hành Nghị
định 92/2012/NĐ-CP quy định chi tiết về biện pháp thi hành Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo với nhiều điểm mới phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho sinh hoạt tôn giáo của người dân; trong đó, có quy định điều kiện
và thời gian để một hoạt động tôn giáo được cấp có thẩm quyền công nhận là tổ
chức tôn giáo. Theo đó:
Về thời gian, sau 03
năm kể từ ngày được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo, tổ chức có hoạt động tôn
giáo liên tục, không vi phạm các quy định của Điều 8, Nghị định 92/2012/NĐ-CP,
ngày 08/11/2012 của Chính phủ và đáp ứng các điều kiện:
- Là tổ chức của
những người có cùng tín ngưỡng, có giáo lý, giáo luật, lễ nghi không trái với
thuần phong, mỹ tục, lợi ích của dân tộc;
- Có hiến chương,
điều lệ thể hiện tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và
không trái với quy định của pháp luật;
- Có đăng ký hoạt
động tôn giáo và hoạt động tôn giáo ổn định;
- Có trụ sở, tổ chức
và người đại diện hợp pháp;
- Có tên gọi không
trùng với tên gọi của tổ chức tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
công nhận thì được quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tổ
chức tôn giáo.
Về thẩm quyền công
nhận và thời hạn trả lời:
Khoản 3, Điều 8,
Nghị định 92 quy định:
- Trong thời hạn 45
ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Thủ tướng Chính phủ xét công
nhận tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; trường hợp không công nhận phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
- Trong thời hạn 30
ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh xét công nhận tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động chủ yếu ở một tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương.
Chính phủ Việt Nam đã
quy định rõ ràng như vậy, tín đồ các tôn giáo đã biết và hiểu rõ, muốn được cấp
có thẩm quyền công nhận là tổ chức tôn giáo, thì phải đăng ký để được hoạt động
theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Không đăng ký, hoặc đăng ký nhưng
không đủ điều kiện trên thì không được công nhận là tổ chức tôn giáo thì không
hoạt động như tổ chức tôn giáo được. Bởi lẽ, Việt Nam cũng như các quốc gia có chủ
quyền khác, mọi hoạt động của tổ chức, cá nhân, trong đó có hoạt động tôn giáo
đều phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Thế mà, Báo cáo tự do Tôn giáo quốc
tế 2014 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại cho rằng, nhà cầm quyền Việt Nam tiếp tục
giới hạn hoạt động của các tổ chức tôn giáo không đăng ký (!).
Khi được hỏi: Tại
sao các tổ chức này không đăng ký hoạt động với nhà nước để được công nhận và
sinh hoạt đạo dễ dàng hơn? Một số hội nhóm tôn giáo nói “thực hành tín ngưỡng
là quyền căn bản, công dân có quyền sinh hoạt tôn giáo độc lập với nhà nước,
không phải xin - cho”. Điều đó cho thấy, rõ ràng họ không muốn đăng ký vì
muốn sống ngoài pháp luật, bất chấp luật pháp mà không nơi nào trên thế giới có
được. Đó là sự đòi hỏi phi lý, không chấp nhận được. Đây chỉ là số ít, không
phản ánh đúng bức tranh tôn giáo Việt Nam hiện nay, với 95% dân số có đời sống
tín ngưỡng. Hằng năm, Việt Nam
có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia và địa phương được
tổ chức. Tín đồ tôn giáo hoàn toàn tự do trong việc thực hiện các nghi lễ tôn
giáo, bày tỏ và thực hành đức tin tôn giáo của mình. Chức sắc, nhà tu hành các
tôn giáo được tự do trong việc thực hành các hoạt động tôn giáo theo giáo luật.
Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc được thực hiện theo quy định
của giáo hội. Các tổ chức tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân trong
những năm qua đều có sự phát triển về số lượng cơ sở giáo hội, về tín đồ, chức
sắc nhà tu hành, về việc xây dựng mới hoặc tu bổ các cơ sở thờ tự, bảo đảm kinh
sách, các hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ và giáo lý, giáo luật.
Các chức sắc, nhà tu hành được tham gia học tập, đào tạo ở trong nước và nước
ngoài hoặc tham gia các sinh hoạt tôn giáo ở nước ngoài. Nhiều tổ chức tôn giáo
nước ngoài đã vào giao lưu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam . Điển hình
là, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên hợp
quốc 2008 và 2014 tại Việt Nam.
Việc in kinh sách và
xuất bản các ấn phẩm khác liên quan đến tôn giáo được duy trì thường xuyên, bảo
đảm phục vụ yêu cầu hoạt động tôn giáo tại Việt Nam . Hầu hết các tổ chức tôn giáo
đã có báo, tạp chí, bản tin, như: Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Báo Giác ngộ của
Phật giáo; Tập san Hiệp thông, Báo Người Công giáo Việt Nam, Báo Công giáo và
Dân tộc của Công giáo; Tạp văn Hương sen của Phật giáo Hòa Hảo; Bản tin Mục vụ
và Bản tin Thông công của Tin lành,… đã nói lên bức tranh phong phú, sinh động
của tôn giáo Việt Nam. Đồng thời, bác bỏ báo cáo sai lệch về tình hình tôn giáo
Việt Nam
của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ./.