May 26, 2022

Việt Nam luôn chọn chính nghĩa

 

         Tre Việt - Trong các ngày 23, 24/5, kênh VOA tiếng Việt đã đăng 03 bài viết có tiêu đề: “Mua sắm phương tiện quốc phòng, bao giờ… “chọn chính nghĩa” của Trần Văn; trong đó, y phân tích, mổ xẻ việc mua sắm phương tiện quốc phòng của các đơn vị chức năng của Bộ Quốc phòng Việt Nam thời gian qua. Như nhiều quốc gia trên thế giới, việc mua sắm vũ khí, khí tài quân sự là “bí mật quốc gia”. Song với, âm mưu, hành động xấu nhằm hạ thấp, bôi nhọ uy tín, thanh danh của Quân đội, Trần Văn đã xuyên tạc, quy chụp việc mua sắm vũ khí, khí tài, chi tiêu ngân sách quốc phòng của Quân đội đang có sự thông đồng, móc ngoặc, “lại quả”,… giữa các cá nhân, đơn vị chức năng của Bộ Quốc phòng với cá nhân, đối tác trong nước và nước ngoài.

Chúng ta đều biết, cùng với con người thì vũ khí, khí tài, trang bị là yếu tố rất quan trọng quyết định đến sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Vì thế, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, một số lực lượng, quân chủng, binh chủng tiến thẳng lên hiện đại, thời gian qua, Quân đội đã được quan tâm, đầu tư xây dựng cả về con người và vũ khí, trang bị. Và để đảm bảo bí mật quân sự, bí mật quốc gia thì  việc mua sắm vũ khí, khí tài không được thông tin công khai; nhưng, việc này đều được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tham mưu, báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và được giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị chức năng thực hiện theo đúng quan điểm, chủ trương, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, được tuân thủ theo đúng pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội. Trên thực tế, Quân đội ta đã được trang bị nhiều loại vũ khí, khí tài, trang bị mới, hiện đại, góp phần nâng cao đáng kể sức mạnh chiến đấu của Quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Mặc dù vậy, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán rằng: Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình và tự vệ. Việc mua sắm vũ khí, khí tài nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội là để tự vệ, chứ không phải chạy đua vũ trang. Việt Nam không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp với các quốc gia bằng biện pháp hòa bình. Điều này đã được thể hiện, khẳng định rõ trong Sách trắng quốc phòng Việt Nam được công bố công khai năm 2009 và 2019 cũng như trong các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Vậy là quá rõ để cộng đồng quốc tế hiểu biết về quan điểm của Việt Nam, chứ không “lập lờ đánh lận con đen” như Trần Văn đã nêu “mua sắm phương tiện quốc phòng, bao giờ… “chọn chính nghĩa”.

Tất nhiên, trong bất cứ lĩnh vực nào, kể cả liên quan đến “bí mật quốc gia” như mua sắm vũ khí, khí tài, phương tiện quốc phòng nếu có sai phạm, vi phạm pháp luật đều sẽ bị xử lý nghiêm minh, không bao che, dung túng. Đảng, Nhà nước Việt Nam đang đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tinh thần “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” nên sẽ không có vùng cấm. Điều này đã được khẳng định, chứng minh khi mà thời gian gần đây, có nhiều cán bộ cao cấp, tướng lĩnh trong Quân đội khi sai phạm, vi phạm pháp luật đều đã bị xử lý nghiêm minh theo quy định của kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Sự thực trên, tự nó vạch trần thói suy diễn, xuyên tạc với âm mưu, dã tâm xấu của Trần Văn khi đặt câu hỏi: “…, những thương vụ mua sắm phương tiện quốc phòng họ sẽ chọn thứ gì? Chọn “bên” hay chọn “chính nghĩa”./.

 

Sự suy luận ấu trĩ của Trần Văn về chính sách quốc phòng của Việt Nam

           Tre Việt - Lợi dụng sự kiện Nga - Ukraine, quen thói “nói càn” Trần Văn lại có suy luận ấu trĩ để xuyên tạc chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam. Trong bài đăng trên Tiếng Dân News, Trần Văn cho rằng: “…định ra và đeo đuổi “chính sách ba không”, thậm chí tạo thêm một… “không” chỉ để duy trì… “sự toàn vẹn của đặc quyền, đặc lợi” cho đảng của mình, chính phủ của mình, chứ không phải giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ, duy trì và phát triển các lợi ích của quốc gia, dân tộc”!

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019

Cần nhắc lại để Trần Văn biết: cũng như mọi quốc gia khác trên thế giới, chính sách quốc phòng “ba không”, rồi “bốn không” của Việt Nam là để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nói đến Tổ quốc có thể khái quát là sự hợp thành của hai phương diện: tự nhiên lịch sử và chính trị – xã hội. Nếu thiếu một trong hai phương diện trên thì chưa phải Tổ quốc hoàn chỉnh.

Ở Việt Nam, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 về phương diện tự nhiên lịch sử của đất nước ta vẫn còn nguyên đó, thực dân Pháp có “bê” được vùng đất, trời, biển của Việt Nam về lắp ghép với vùng đất, trời… của nước Pháp đâu mà nhân dân ta vẫn nói là nước mất nhà tan. Bởi vì chính quyền phong kiến Việt Nam lúc đó chỉ là bù nhìn, làm tay sai cho thực dân Pháp. Mặt khác, nếu không có phương diện tự nhiên lịch sử, thì dù có đầy đủ bộ máy nhà nước thì họ cũng đâu có Tổ quốc. Thử hỏi Trần Văn: một số tổ chức lưu vong, như: Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời (từ 1990 đến nay), do Đào Minh Quân lãnh đạo; Việt Nam Quốc dân Đảng (1927 đến nay), do Trần Tử Thanh, Trần Thắng lãnh đạo; Đại Việt Cách mạng Đảng (1965 đến nay) do Trần Dzũng Minh Dân, Nguyễn Văn Lung lãnh đạo; Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng (1982 đến nay) do Hoàng Cơ Minh, Đỗ Hoàng Điềm, Lý Thái Hùng, Hồng Thuận lãnh đạo,… dù các tổ chức này có bộ máy, nhưng họ có Tổ quốc không? Điều hiển nhiên là không phải không Trần Văn (!) Vì, họ làm gì có vùng đất, vùng trời, biển,… nào để mà làm chủ.

Như vậy, chính sách quốc phòng “ba không”, rồi “bốn không” của Việt Nam là để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên cả hai phương diện: tự nhiên lịch sử và chính trị – xã hội; không thể chỉ bảo vệ “sự toàn vẹn của đặc quyền, đặc lợi” cho Đảng và Chính phủ mà không “giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ, duy trì và phát triển các lợi ích của quốc gia, dân tộc”. Vì hai mặt này thống nhất biện chứng với nhau tạo nên Tổ quốc; nên không thể chỉ có mặt này mà không có mặt kia và ngược lại.

Việc Trần Văn cố tình lờ đi tính lịch sử của chính sách quốc phòng Việt Nam là không tôn trọng tính khách quan, hòng suy diễn với chủ ý xấu của kẻ tiểu nhân. Thực tế cho thấy, đối với nước nhỏ trước những nước lớn, thế lực lớn đan xen thì phải khôn khéo trong chính sách đối ngoại, làm sao để dân tộc mình giữ được mối quan hệ tốt với các nước, đặc biệt là với các nước lớn, để tận dụng tốt thời cơ phát triển đất nước. Chính sách quốc phòng “ba không”, “bốn không” của Việt Nam là nhằm mục đích đó.

Lịch sử minh chứng, Việt Nam đã chiến thắng trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, để kiến lập nền hòa bình bền vững cho đất nước. Và trong hơn 1/4 thế kỷ qua, trước tình hình sóng gió, biến động phức tạp, căng thẳng của khu vực và thế giới, nhưng Việt Nam giữ vững được toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, giữ được độc lập tự chủ và những gì chúng ta đang có, đồng thời giữ được hòa bình. Thành quả đó là tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó có việc thực thi chính sách quốc phòng “ba không”, “bốn không” là một yếu tố quan trọng. Vì vậy, sự suy luận của Trần Văn là ấu trĩ cả trên hai phương diện: tự nhiên lịch sử và chính trị – xã hội, nhằm mục đích xấu, cần đấu tranh bác bỏ./.

May 24, 2022

Không gì có thể chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc

          Tre Việt - Lợi dụng cuộc gặp và phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính với đại diện cộng đồng người Việt tại Mỹ vừa qua, trang facebook Chân Trời Mới Media, ngày 23/5 đăng bài “Dân tộc Việt Nam có thực sự là một như lời ông Phạm Minh Chính?” của một số phần tử cơ hội chính trị, như: Nguyễn Huy Vũ, Đinh Đức Long, Đinh Kim Phúc,… nêu ý kiến, bình luận xuyên tạc, reo sự hoài nghi, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Một sự thật hiển nhiên rằng: Việt Nam gồm cộng đồng 54 dân tộc, đang sinh sống trên khắp mọi miền đất nước và ở nước ngoài; là thể thống nhất, không thể tách rời. Lịch sử dân tộc đã chứng minh: trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, đồng lòng đứng lên đánh đuổi kẻ thù xâm lược, giành lại độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Bước vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cộng đồng người Việt Nam dù ở sinh sống trong nước hay ở nước ngoài tiếp tục đoàn kết, đồng lòng cùng với toàn Đảng, toàn quân phát huy trí tuệ, sức lực để xây dựng, phát triển đất nước, sánh vai cùng các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt là trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, các thế hệ người Việt Nam dù sinh sống ở đâu cũng luôn tự hào được mang dòng máu Việt Nam, là con cháu Lạc Hồng với khát vọng được cống hiến trí tuệ, sức lực để phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực, góp phần khẳng định vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Hình ảnh rừng người, rợp trời cờ đỏ, sao vàng trên các khán đài của Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, trên các đường phố trong cả nước để cổ vũ cho chiến thắng của đội tuyển bóng đá U23 Việt Nam tại SEA Games 31 mới đây đã khẳng định tinh thần đoàn kết dân tộc Việt Nam là không gì có thể chia rẽ. Và tinh thần yêu nước, đoàn kết đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.

Trên thực tế, do yếu tố lịch sử chiến tranh, hiện có hàng triệu người Việt Nam đang học tập, công tác, sinh sống, định cư ở nước ngoài (riêng ở Mỹ có khoảng hơn 02 triệu người). Và, họ là bộ phận không tách rời của dân tộc, đất nước Việt Nam. Chính vì thế, những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, có nhiều chủ trương, chính sách cụ thể để động viên, khuyến khích cộng đồng người Việt xa sứ; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để họ sinh sống, làm việc, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Mỗi khi lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta công du đến các nước, nhất là đến Mỹ đều có các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với cộng đồng người Việt Nam sinh sống tại đây để thông báo về những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; khuyến khích, động viên cộng đồng người Việt ở nước ngoài hướng về quê hương, đất nước bằng những việc làm thiết thực.

            Song một số người vốn có “thâm thù” với chế độ, đất nước, nhân dân Việt Nam, nên họ luôn không thừa nhận sự thật. Ngược lại, họ luôn hằn học, cay cú với chế độ, luôn tìm cách bới móc, xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam để kích động, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Những việc làm đó của họ cần bị vạch mặt, lên án, phê phán trước công luận./. 

May 17, 2022

Việt Tân bị “tăng động”

          Tre Việt - Những ngày gần đây, trang Facebook Việt Tân đã đăng tải hàng loạt thông tin nhân sự kiện Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Hội nghị Thượng đỉnh Hoa Kỳ - ASEAN tại Mỹ vừa qua. Điển hình là, Việt Tân đã phát tán tài liệu: “Mời quý đồng hương” tham dự các cuộc biểu tình vào ngày 12, 13/5/2022 trước cửa Nhà trắng để phản đối Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Hội nghị Thượng đỉnh Hoa Kỳ - ASEAN; phát tán tài liệu “Họp báo kêu gọi quan tâm đến vấn đề nhân quyền tại Việt Nam và Đại sứ quán Việt Nam” hay ra thông cáo kêu gọi thúc đẩy nhân quyền nhân cuộc họp Thượng đỉnh Hoa Kỳ - ASEAN, v.v. Đây là những hoạt động cho thấy Việt Tân lại bị “tăng động”, cố tình chống phá hòng làm xấu đi hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.

Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế với các quốc gia, tổ chức quốc tế để không ngừng củng cố, nâng cao uy tín, vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Trải qua nhiêu thăng trầm của lịch sử, đến nay Hoa Kỳ đã trở thành đối tác toàn diện của Việt Nam, mối quan hệ giữa chính phủ, nhân dân hai nước đang ngày càng trở nên tốt đẹp. Cũng tại Hoa Kỳ, hiện đang có hàng triệu người gốc Việt và công dân Việt Nam đang sinh sống, làm việc. Đây là một bộ phận không thể tách rời của đất nước, dân tộc Việt Nam. Do đó, Đảng, Nhà nước ta đã có chủ trương và những hành động, việc làm cụ thể để động viên, khích lệ đối với cộng đồng người Việt xa sứ; luôn tạo điều kiện thuận lợi để họ sinh sống, làm việc, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đồng thời, khuyến khích, kêu gọi cộng đồng người Việt trên khắp thế giới hướng về quê hương, Tổ quốc với khả năng của mình. Trên thực tế, những năm qua, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã có những đóng góp đáng kể vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân cả nước ghi nhận, đánh giá cao.

Tuy nhiên, có một bộ phận người Việt sống ở nước ngoài đã, đang đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Họ đã thành lập một số tổ chức, có các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ; trong đó, tổ chức khủng bố Việt Tân là một trong những tổ chức như thế. Các tổ chức này thường xuyên có các hoạt động chống phá Việt Nam, nhất là mỗi khi có lãnh đạo đất nước ta sang thăm, làm việc tại Hoa Kỳ thì chúng lại kêu gọi, tụ tập nhau lại để có các hoạt động chống phá; vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền nhằm tạo tiếng vang, thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế. Đây vốn là những người có thâm thù với chế độ, đất nước, nhân dân Việt Nam trước đây, rời bỏ quê hương, bản quán sống lưu vong, trông chờ vào sự tài trợ, hà hơi tiếp sức của các thế lực thù địch. Song thực tế cho thấy, mặc dù chúng có dùng nhiều chiêu trò kích động, kêu gọi, phát tán tài liệu,… đến đông đảo cộng đồng người Việt đang sinh sống ở nước ngoài nhưng chỉ có một nhóm nhỏ những phần tử cốt cán tích cực tham gia. Vì thế, những hoạt động này cũng chỉ là sự ngộ nhận, bị “tăng động”, và chỉ như trò “ném đá ao bèo” mà thôi./.

May 16, 2022

Việt Nam đứng về lẽ phải, đứng về chính nghĩa

          Tiến sĩ Luận Thùy Dương, người từng là đại sứ Việt Nam tại Myanmar cho rằng, Việt Nam đứng về lẽ phải, đứng về chính nghĩa, lấy đó làm hệ quy chiếu trong việc bày tỏ quan điểm trong quan hệ quốc tế.

Không chọn bên mà chọn chính nghĩa, đó là thông điệp được Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh khi thuyết trình tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế Hoa Kỳ vừa qua. Thủ tướng nêu rõ: trong một thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược và nhiều sự lựa chọn, Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp quốc; bình đẳng, tất cả cùng có lợi, tất cả cùng chiến thắng.

Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia ở khắp các châu lục trên toàn thế giới. Việt Nam đã gắn kết và đan xen lợi ích với nhiều quốc gia trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng và an ninh.

Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp như hiện nay, nhiều quốc gia có lợi ích trái ngược, thậm chí đối đầu với nhau, trong đó cũng có những quốc gia có lợi ích đối nghịch với Việt Nam. Trong tình huống như thế, Việt Nam sẽ phải ứng xử và giải quyết như thế nào khi xác định là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế? Việt Nam có cần chọn bên hay không chọn bên trong mối quan hệ giữa các nước lớn? Đó là những câu hỏi lớn cần được giải đáp. 

Khi cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine xảy ra, từ góc độ Người phát ngôn Bộ Ngoại giao cho đến Trưởng Phái đoàn đại diện Thường trực Việt Nam tại Liên Hợp quốc, chúng ta đã bày tỏ chính thức quan điểm của mình về cuộc xung đột này. Theo đó, Việt Nam kêu gọi các bên liên quan giảm leo thang căng thẳng, nối lại đối thoại và đàm phán thông qua tất cả các kênh, nhằm đạt được giải pháp lâu dài có tính đến lợi ích và quan ngại của tất cả các bên, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia. Các giải pháp như vậy sẽ chấm dứt những khổ đau và đóng góp lớn cho hòa bình, an ninh và phát triển ở châu Âu và thế giới nói chung. Việt Nam mong muốn có thêm các nỗ lực để tăng cường viện trợ nhân đạo cho dân thường, đồng thời hoan nghênh hoạt động của Liên Hợp quốc và các đối tác khác để giúp đỡ người dân trên thực địa, bao gồm cả người tị nạn. Như vậy, quan điểm của Việt Nam là rất rõ ràng, thẳng thắn, mong muốn hai bên hướng về hòa bình và cuộc sống an toàn của người dân để nối lại đàm phán, chấm dứt leo thang căng thẳng.

Phân tích về vấn đề này, Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng cho rằng, trên thế giới, chưa có nước nào có thể hy sinh lợi ích của dân tộc mình chỉ vì lợi ích của một dân tộc khác. Chính vì vậy trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, dù là thời bình hay thời chiến, chúng ta không thể ảo tưởng trông chờ sự trợ giúp của nước ngoài. Việt Nam chúng ta không chọn bên, không đi theo một cường quốc nào, không dựa hẳn vào một cường quốc nào để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc mình.

Như vậy, quan điểm cho rằng, chúng ta cần phải chọn bên để gia tăng sức mạnh bảo vệ đất nước là mơ hồ và ảo tưởng. Bởi lẽ, theo Trung tướng Nguyễn Đức Hải, Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng, nếu tham gia liên minh quân sự, chúng ta sẽ tự chuốc thêm kẻ thù, sẽ trở thành một bên trong cuộc đối đầu giữa các nước lớn. Việt Nam không đứng về bên nào mà Việt Nam chọn lẽ phải, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ Hiến chương Liên Hợp Quốc và những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Trong quan hệ với bạn bè thế giới, Việt Nam luôn tỏ rõ thiện chí là bạn, là đối tác tin cậy với sự chân thành, cởi mở. Vì thế, Việt Nam sẽ không bị cô lập trong cộng đồng quốc tế.

“Là bạn tốt, chúng ta có thể huy động được sức mạnh của cộng đồng quốc tế ở phạm vi rất rộng, toàn diện. Và chúng ta cũng góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, loại trừ được nguy cơ xung đột chiến tranh. Nếu chúng ta chọn bên sẽ mất độc lập, tự chủ. Ngay trong các khối liên minh, hiện tại chúng ta cũng thấy đang còn những vấn đề xung đột về lợi ích, kiềm chế và phụ thuộc lẫn nhau”, Trung tướng Nguyễn Đức Hải dẫn chứng.

Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam luôn tỏ rõ thiện chí là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến phức tạp như hiện nay, rất nhiều quốc gia có lợi ích trái ngược, đối đầu. Trong những tình huống như vậy, chúng ta cũng phải thể hiện quan điểm, chính kiến của mình. Tiến sĩ Luận Thùy Dương - nguyên đại sứ Việt Nam tại Myanmar cho rằng, Việt Nam đứng về lẽ phải, đứng về chính nghĩa, lấy đó làm hệ quy chiếu trong việc bày tỏ quan điểm trong quan hệ quốc tế. Theo Đại sứ, Tiến sĩ Luận Thùy Dương, lẽ phải chúng ta chọn ở đây là vì hòa bình và phát triển thịnh vượng của thế giới. Chính nghĩa mà chúng ta kiên định phải hiểu là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị hợp tác và phát triển của đất nước ta. Khi chúng ta chọn lẽ phải và đứng về chính nghĩa như thế chúng ta không việc gì phải chọn bên này, bên kia, không việc gì phải chọn đi theo nước này hay nước kia.

Thực tế cho thấy, sau chiến tranh thế giới thứ hai đã ra đời không ít liên minh quân sự, nhưng trên thực tế đó là các liên minh đối đầu nhau về lợi ích, đưa đẩy thế giới vào những cuộc chiến tranh, xung đột, tranh giành quyền lực dẫn đến những bất ổn về chính trị. Nhiều quốc gia, nhất là các nước nhỏ trong khối liên minh quân sự bị chi phối, tác động của các nước lớn, trong nhiều trường hợp đã phải từ bỏ một phần chủ quyền của mình, không còn giữ được đầy đủ độc lập, tự chủ, trở thành “con tốt” trên bàn cờ chiến lược của các nước lớn, thậm chí khi chủ quyền bị xâm phạm thì các thành viên trong khối cũng gần như không có sự can thiệp, hỗ trợ gì về quân sự.

Như vậy, bảo vệ Tổ quốc phải dựa vào thực lực của chính mình, mọi sự trông chờ, giúp đỡ, dựa vào nước ngoài để bảo vệ đất nước là điều không thể có, và không thể thành hiện thực trong thực tế. Đây cũng là quan điểm của Tiến sĩ Sử học Phạm Minh Thế. Tiến sĩ Phạm Minh Thế nêu rõ, hiện nay có nhiều tranh luận trên các diễn đàn mạng xã hội, rằng chúng ta phải nghiêng về phía bên nọ, nghiêng về phía bên kia nhưng quan trọng nhất vẫn là phải nghiêng về sức mạnh đại đoàn kết quốc gia, dân tộc và dựa vào thực lực của chính mình, dựa vào sự chủ động sáng tạo và linh hoạt của ta trong việc ứng phó với những biến đổi của thời cuộc. “Cần phải có trái tim nóng nhưng phải có cái đầu lạnh để giải quyết những sự phức tạp của các mối quan hệ quốc tế”, Tiến sĩ Phạm Minh Thế nhấn mạnh.

Hiện nay quan hệ ngoại giao nhà nước Việt Nam “phủ sóng” tới 189 trong tổng số 200 quốc gia trên toàn thế giới. Quan hệ đối ngoại quốc phòng của ta ngày càng rộng mở, chúng ta có quan hệ quốc phòng với trên 80 quốc gia thuộc cả 05 châu lục, đặc biệt chúng ta có quan hệ quốc phòng với tất cả 05 thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc là những quốc gia có vai trò, có ảnh hưởng chủ chốt trong duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Đây là điều chưa từng có từ trước tới nay.

Theo bà Nguyễn Phương Nga, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, đó là cơ hội thuận lợi để chúng ta ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, duy trì hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. “Ngày nay, Việt Nam đang có nhiều nỗ lực đóng góp vào hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Chúng ta nỗ lực thúc đẩy tuân thủ luật pháp quốc tế và giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Chúng ta đã 3 lần đảm nhiệm thành công cương vị Chủ tịch ASEAN, 02 lần làm thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, đang tích cực tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên Hợp quốc”, bà Nguyễn Phương Nga dẫn chứng thêm.

Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã phải tiến hành nhiều cuộc kháng chiến, đấu tranh chống giặc ngoại xâm để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Là một đất nước đã phải chịu quá nhiều những khổ đau, mất mát do chiến tranh, dân tộc Việt Nam luôn yêu chuộng hòa bình, phản đối chiến tranh, bạo lực. Và như một lẽ tự nhiên, Việt Nam được quốc tế coi là biểu tượng của đất nước vì hoà bình, một đối tác vì hòa bình bền vững. Việt Nam không chỉ gửi đi thông điệp đó mà còn có rất nhiều hành động, nhiều đóng góp cụ thể, thiết thực cho việc ngăn chặn xung đột, ngăn chặn chiến tranh, vì hoà bình bền vững trên thế giới./.

 

(Nguồn Trường Giang/Phát thanh Quân đội)

 

May 6, 2022

Sự nhìn nhận thiếu khách quan về tự do báo chí ở Việt Nam

         Tre Việt - Ngày 04/5, trang facbook Việt Tân, đăng bài: “Việt Nam tiếp tục xếp trong nhóm 10 nước tệ nhất về tự do báo chí thế giới” của Diễm Quỳnh dẫn thông tin: “Ngày 3/5/2022, tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (RSF) công bố Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới năm 2022, Việt Nam xếp ở vị trí 174 trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ”; đồng thời, xuyên tạc rằng: “Truyền thông Việt Nam vẫn bị cho là chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo. Giới phóng viên và các bloggers độc lập thường bị bỏ tù khiến Việt Nam thuộc nhóm bỏ tù nhà báo nhiều nhất đứng hàng thứ ba thế giới. Thống kê của RSF cho thấy có 40 nhà báo đang bị giam cầm”. 

Đây không phải lần đầu tiên RSF đưa ra báo cáo dựa trên những thông tin sai sự thật, không có cơ sở và có dụng ý xấu. Việc RSF tự cho mình quyền xếp hạng tự do báo chí của một quốc gia theo những tiêu chí riêng của họ mà không thực sự hiểu rõ về hoàn cảnh, điều kiện của mỗi quốc gia khiến những đánh giá, nhận định của tổ chức này không có độ tin cậy, thiếu sức thuyết phục. Do đó, bảng xếp hạng mà họ đưa ra chỉ là trò hề lố bịch, không lừa bịp được ai (!).

Ở Việt Nam, tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Với quan điểm đề cao vai trò của báo chí là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, để nhân dân trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình. Thông qua đó báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến tâm huyết đối với Đảng, Nhà nước, định hướng dư luận trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Thực hiện quan điểm đó, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin đã được Hiến pháp (năm 2013), Luật Báo chí (năm 2016) và Luật Tiếp cận thông tin (năm 2016) quy định trách nhiệm của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân. Đặc biệt, báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 41.000 nhân sự đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí, với 779 cơ quan báo chí (trong đó, có: 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh - truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền hình. Các nhà báo tại Việt Nam được luật pháp bảo vệ, đồng thời hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, đóng góp có trách nhiệm vào lợi ích chung của người dân và xã hội. Nhà nước luôn quan tâm và đảm bảo bằng cơ chế pháp luật để mọi công dân đều có thể thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí một cách thuận lợi nhất. Cùng với đó, các cơ quan thông tấn, báo chí nước ngoài cũng đang hoạt động tích cực tại Việt Nam và được tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tác nghiệp. Tại Việt Nam, việc người dân sử dụng mạng xã hội, các phương tiện truyền thông để bày tỏ quan điểm, chính kiến, tâm trạng, nghĩ suy của mình là hết sức dễ dàng, thoải mái, không gặp bất kỳ sự cản trở, ngăn cấm của cơ quan chức năng. Đó là minh chứng sinh động để khẳng định quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được bảo đảm.

Thời gian qua, Nhà nước Việt Nam chỉ bắt giữ, xử lý các đối tượng lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. vi phạm quyền và lợi ích của Nhà nước và công dân theo pháp luật. Điều này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật các quốc gia khác quy định trên lĩnh vực này. Vì vậy, báo cáo về Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới năm 2022 của RSF chỉ sự là quy chụp, xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam; không lừa được ai./.

Suy diễn, phán bừa

          Tre Việt - Những ngày gần đây, trên các trang mạng xã hội có nhiều bài viết liên quan đến kỳ họp thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) đang diễn ra tại thủ đô Hà Nội. Điển hình, như: ngày 03/5, trang facebook Chân Trời Mới Media đăng bài “Nội tình của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay trước Hội nghị Trung ương 5: những cuộc so găng trong tứ trụ”, facebook Tiếng Dân News có bài “Những biến cố trước Hội nghị Trung ương 5” hay facebook Việt Tân, ngày 04/5 đăng bài “Khảo sát ý kiến của độc giả về tương lai chính trị của ông Nguyễn Phú Trọng”, v.v. Đây vẫn là chiêu trò tung tin, xuyên tạc, phán bừa của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị nhằm gây hoang mang, chia rẽ nội bộ, nói xấu, bôi nhọ uy tín thanh danh của Đảng cần lên án, bác bỏ.

Bởi, các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương là định kỳ, được tổ chức giữa các kỳ đại hội của Đảng toàn quốc, để bàn bạc, thống nhất những chủ trương, đường lối, quyết sách lớn trong lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước. Với mỗi kỳ họp, Ban Chấp hành Trung ương đều có nội dung, chương trình, thời gian làm việc cụ thể, được công bố trong buổi khai mạc kỳ họp và thông tin công khai trên các phương tiên thông tin đại chúng để đảng viên và nhân dân theo dõi.

Việc diễn ra các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương và việc cơ quan chức năng bắt giữ, điều tra, xét xử, kỷ luật những tập thể, cá nhân vi phạm pháp luật, kỷ luật của Đảng được tiến hành đồng thời, là hoàn toàn bình thường. Việc làm này càng khẳng định quyết tâm phòng, chống, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, làm trong sạch bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta. Đây là việc làm không dừng, không nghỉ, khi có sai phạm phải xử lý ngay, bất cứ thời điểm nào. Đơn cử, như việc sau thời gian theo dõi, phát hiện ra những sai phạm xảy ra tại Sở Y tế tỉnh Đồng Nai và Công ty Cổ phần Tiến bộ quốc tế (AIC Group) thì Bộ Công an đã ra lệnh bắt tạm giam đối với ông Phan Huy Anh Vũ, Giám đốc Sở Y tế và bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Giám đốc AIC Group ngay trước thềm Hội nghị Trung ương 5 là thể hiện sự kiên quyết, kịp thời, không có vùng cấm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Tuy nhiên, các phần tử phản động, cơ hội chính trị lại đoán già, đoán non, “nghe hơi nồi trõ”, suy diễn, rồi “cào bàn phím” tung tin, phán bừa rằng đó là do đấu đá phe cánh, trành giành quyền lực trong nội bộ Đảng, v.v. Điều này là suy diễn vô căn cứ, phán bừa, nên mọi người hãy cảnh giác, lắng nghe, chắt lọc thông tin./.

May 1, 2022

Năm tháng sẽ qua đi, chiến thắng 30/4 mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc

          Cách nay 47 năm (1975), khi thời cơ tổng công kích vào thành lũy cuối cùng của chính quyền Sài Gòn đã điểm, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết địnhmởchiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Sau gần 04 ngày tổng tiến công và nổi dậy, trưa ngày 30/4/1975, quân và dân ta làm chủ thành phố Sài Gòn – Gia Định, bắt giữ và buộc Tổng thống chính quyền Sài Gòn phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, đánh dấu sự chấm hết của chế độ thực dân mới, mà đế quốc Mỹ đã dày công xây dựng bị sụp đổ hoàn toàn.Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta nửa cuối thế kỷ XX, có ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại sâu sắc.

Sau khi Hiệp định Paris “Về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết (27/01/1973), nhận thấy tương quan so sánh lực lượng đã hoàn toàn nghiêng về phía ta, ngày 07/01/1975, Bộ Chính trị họp “Bàn về tình hình và nhiệm vụ cuộc chống Mỹ, cứu nước” hạ quyết tâm lịch sử: Giải phóng miền Nam. Bộ Chính trị nhận thấy quân Mỹ khó có khả năng quay lại tham chiến tại miền Nam và nhất trí thông qua phương án giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 – 1976, đồng thời chọn chiến trường Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu và xác định: “Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Điều đó là một khả năng hiện thực”[1].

Để kiểm chứng nhận định trên, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Đường số 14 – Phước Long, diễn ra từ ngày 13/12/1974 đến ngày 06/01/1975. Qua đòn trinh sát chiến lược này, Bộ Chính trị đã họp bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Đặc biệt, sau những thắng lợi liên tiếp của các đòn tiến công chiến lược, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị nhận định: “Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không  để chậm”[2].

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã đoàn kết một lòng, nỗ lực cao độ, tạo thành sức mạnh “triều dâng thác đổ” như thế chẻ tre, tiến hành thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh – trận quyết chiến chiến lược quyết định cuối cùng với quân thù. Chỉ trong một thời gian ngắn, với tinh thần “một ngày bằng hai mươi năm”, cùng lực lượng áp đảo, với một khối lượng lớn vật chất hậu cần đã có mặt ở khu vực tập kết, sẵn sàng tổng tiến công vào nội đô Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã diễn ra và kết thúc thắng lợi vào ngày cuối cùng của tháng Tư (30/4/1975), theo đúng nhận định của Bộ Chính trị. Sau gần 4 ngày tổng tiến công và nổi dậy, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông thu về một mối. 

Chiến thắng 30/4/1975 của dân tộc ta vô cùng vẻ vang oanh liệt, là thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – Đường lối chiến tranh nhân dân: Toàn dân, toàn diện, tự lực, tự cường; vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối, phương pháp cách mạng và đường lối chiến tranh nhân dân độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo và đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo bảo đảm thành công đường lối đó; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp; giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; giữa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế; động viên toàn dân, toàn quân đoàn kết tham gia kháng chiến và kiến quốc, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn. Hơn nữa, chiến thắng 30/4/1975 còn là thắng lợi của nền văn hóa Việt Nam được xây đắp từ tinh hoa văn hoá của 54 dân tộc anh em trên đất nước ta, đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vươn lên tự khẳng định sức sống trường tồn. Đó là nền văn hóa bắt nguồn từ lòng yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu đất nước, yêu độc lập, tự do, hòa bình; từ lòng nhân ái, trọng chính nghĩa, ghét gian tà, thấm đượm chủ nghĩa nhân văn cao cả và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam; cởi mở tiếp thu những tinh hoa của nhiều nền văn hoá thế giới. Nền văn hoá ấy ngày càng được bồi đắp và không ngừng phát huy lên tầm cao mới – Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là cội nguồn sức mạnh vĩ đại của ý chí và trí tuệ Việt Nam, của bản lĩnh, lòng quả cảm và cốt cách Việt Nam, tạo nên sức sống mãnh liệt của nền văn hiến Việt Nam. Đồng thời, chiến thắng 30/4/1975 thể hiện sự hội tụ sức mạnh của toàn dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đó là sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, với sự hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sĩ cả nước, với tinh thần: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” và khí phách: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”; là thắng lợi của khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, tự do và thống nhất non sông của dân tộc Việt Nam.

Đại tướng Văn Tiến Dũng – Nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam thời chống Mỹ, cứu nước đã khẳng định với các nhà báo và học giả phương Tây rằng: “Một lần nữa tôi muốn nói rõ rằng nguồn gốc mọi thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một dân tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình trong thời đại ngày nay”[3].

Hiện nay, trên một số phương tiện thông tin đại chúng, website và mạng xã hội xuất hiện những luận điệu xuyên tạc lịch sử, phủ nhận tầm vóc, ý nghĩa của Chiến thắng 30/4/1975; xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta; hạ thấp tầm vóc của chiến thắng, cho rằng chiến thắng 30/4/1975 không thể gọi là một chiến thắng vẻ vang, mà chỉ là một kết quả tất nhiên khi Mỹ thay đổi chính sách đối ngoại, rút quân, cắt viện trợ, bỏ rơi chính quyền và quân đội Sài Gòn,… Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử đã bác bỏ những luận điệu sai trái đó, vì cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến đấu chính nghĩa nhằm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Thắng lợi vĩ đại 30/4/1975 là kết quả của cả một quá trình đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Do đó, chiến thắng 30/4/1975 thuộc về dân tộc Việt Nam, Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại; thắng lợi của sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè, các lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đúng như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tình thời đại sâu sắc”[4].

Trong giai đoạn cách mạng mới, dù tình hình quốc tế, khu vực luôn có những diễn biến phức tạp, khó lường; sự nghiệp đối mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế vẫn còn nhiều thách thức, khó khăn phải vượt qua nhưng tầm vóc, ý nghĩa và giá trị của chiến thắng 30/4/1975 – Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước mãi trường tồn. Đó vừa là niềm tự hào, là động lực và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.


[1] ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36, Nxb CTQG, H. 2004, tr.10.

[2] ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36, Nxb CTQG, H. 2004, tr.95 – 96.

[3] Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch: Vì sao Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb. Sự thật, H. 1986, tr.48.

[4] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976). Dẫn theo Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tậpTập 37 (1976), Nxb CTQG, H. 2004, tr.471.

 

          (Nguồn Hương Sen Việt)

Thống nhất đất nước: Hòa hợp, hòa giải và lợi ích dân tộc cốt lõi

           Ngày 30/4/1975 đưa đất nước Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tròn 47 năm thống nhất đất nước cũng là chừng ấy thời gian Đảng, Nhà nước ta đẩy mạnh chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.

Chính sách hòa hợp, hòa giải của Đảng và Nhà nước ta dựa trên lợi ích cốt lõi của quốc gia, dân tộc là Tổ quốc độc lập, thống nhất, giàu mạnh, lãnh thổ toàn vẹn, nhân dân làm chủ, đoàn kết gắn bó máu thịt giữa hơn 98 triệu người trong nước với hơn 05 triệu người Việt ở nước ngoài.

Hễ ai là người Việt Nam!

Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, đoàn kết toàn dân tộc là cội nguồn sức mạnh, là chìa khóa quyết định thành công của cách mạng Việt Nam. Người nêu rõ: Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ.

Ngày 19/12/1946, trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Thấm nhuần tư tưởng của Bác, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam trong mọi giai đoạn cách mạng đều nêu cao tinh thần đại đoàn kết để tập hợp tất cả “hễ ai là người Việt Nam” vì lợi ích cốt lõi của quốc gia, dân tộc. Điều này càng được thể hiện rõ nét từ sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975.

Chính sách hòa hợp, hòa giải của Đảng và Nhà nước Việt Nam lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng của mọi người có dòng máu Việt, dù ở trong nước hay nước ngoài. Nhà nước ta tạo điều kiện cho mọi người, kể cả những người từng làm việc trong chế độ cũ, về thăm, đóng góp để xây dựng quê hương. Tháng 01/1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, (khóa VII) của Đảng chủ trương tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy mọi năng lực sáng tạo của công nhân, nông dân và trí thức, các tầng lớp, các giai cấp, các tôn giáo, kể cả cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Tháng 6/1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh: “Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những thành tựu lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở rộng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, ở cả trong nước và nước ngoài, phát huy dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đảng xác định phương châm: Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công – nông – trí làm nền tảng, đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay đang định cư ở nước ngoài…

Tháng 4/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cụ thể hóa về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai… trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) ra Nghị quyết số 23-NQ/TW về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tại hội nghị này, Đảng ta sử dụng thuật ngữ “đại đoàn kết toàn dân tộc” thay cho thuật ngữ “đại đoàn kết toàn dân” với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết, đoàn kết ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Các Đại hội X, XI, XII và XIII của Đảng tiếp tục khẳng định tầm quan trọng to lớn của đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt vai trò, đóng góp của người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài đối với đất nước. Đặc biệt, ngày 26/3/2004, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (Nghị quyết 36-NQ/TW). Nghị quyết 36-NQ/TW nêu rõ: Mặc dù sống xa Tổ quốc, đồng bào luôn nuôi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống văn hóa và hướng về cội nguồn, dòng tộc, gắn bó với gia đình, quê hương. Nhiều người đã có những đóng góp về tinh thần, vật chất và cả xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở của sự đoàn kết là ý thức dân tộc và lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và mục tiêu chung của mọi người Việt Nam là giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, có mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Không đào bới quá nhưng không phủ mờ lịch sử

Để đất nước có được độc lập, thống nhất trọn vẹn, nhân dân được sống trong hòa bình như ngày nay, chúng ta đã trải qua các cuộc trường kỳ kháng chiến với những hy sinh, mất mát lớn lao. Cả nước có 1.146.250 liệt sỹ, trong đó 191.605 liệt sỹ trong kháng chiến chống Pháp, 849.018 liệt sỹ trong kháng chiến chống Mỹ, 105.627 liệt sỹ trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển, đảo…); khoảng hơn 04 triệu dân thường đã thiệt mạng hoặc bị thương tật suốt đời do chiến tranh.

Chúng ta không đào bới quá khứ để nuôi hận thù, làm sâu sắc thêm sự mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ. Nhưng chúng ta không lãng quên lịch sử; ghi nhớ sự mất mát trong chiến tranh để trân trọng hòa bình và những thành quả có được ngày hôm nay. Chúng ta ghi nhận thái độ hòa giải, thiện chí hòa hợp, đóng góp xây dựng đất nước từ phía những người từng quay lưng với lợi ích cốt lõi của dân tộc là Tổ quốc độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng bên cạnh đại đa số người Việt Nam ở nước ngoài có thiện chí hòa hợp, hòa giải, vẫn còn một bộ phận cố chấp, hằn học, chống phá, sau gần nửa thế kỷ đất nước được thống nhất, non sông thu về một mối mà vẫn gọi ngày 30/4 là “ngày quốc hận”, “tháng tư đen”. Hòa hợp, hòa giải không phải là cái cớ để những người này đưa ra những đòi hỏi phi lý đối với đất nước, đánh tráo chân lý, đổi trắng thay đen, bóp méo ý nghĩa lịch sử trọng đại của Ngày thống nhất đất nước, phủ nhận những thành tựu kinh tế-xã hội-đối ngoại mà Việt Nam đã nỗ lực đạt được trong 47 năm qua, đặc biệt là sau gần 36 năm đổi mới.

Thực tế đã chứng minh: Đông đảo bà con người Việt ở nước ngoài hoan nghênh công cuộc đổi mới và chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, mong muốn đất nước cường thịnh, sánh vai với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới; nhiều người đã về thăm gia đình, quê hương, tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học, công nghệ, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, thể thao, nhân đạo, từ thiện…

Mở rộng vòng tay đón nhận những người con xa quê hướng về Tổ quốc, Đảng, Nhà nước ta luôn tạo điều kiện thuận lợi để bà con trở về nguồn cội, thăm thân, thờ cúng tổ tiên, đóng góp cho quê hương đất nước; đã ban hành nhiều chính sách, cụ thể hóa và hoàn thiện các quy định về xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại của người Việt Nam ở nước ngoài theo hướng thông thoáng, thuận tiện và đơn giản thủ tục; tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn tại về mua nhà ở trong nước, thừa kế, hôn nhân gia đình, nhận con nuôi,… liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài; giải quyết có tình, có lý và trên cơ sở đạo lý Việt Nam các vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại, nhằm thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc.

Vậy mà, một số ít người Việt Nam ở nước ngoài đến nay chưa có dịp trở về, chưa được tận mắt thấy được những thành tựu phát triển đất nước; hoặc do thành kiến, mặc cảm, nên chưa hiểu đúng về tình hình đất nước, cố tình đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại với Việt Nam,… Với bộ phận thiểu số này, với những hành vi cố tình chống đối chủ trương hòa giải, lợi dụng chính sách hòa hợp để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, cố tình “đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước”, Đảng, Nhà nước và nhân dân sẽ không nhân nhượng. Họ sẽ phải đối mặt với sự xa lánh của cộng đồng, lạc lõng giữa dòng chảy mạnh mẽ của cả dân tộc hướng về phía trước. Và “những viên sỏi hận thù” bé nhỏ ấy, chắc chắn sẽ chìm nghỉm dưới đáy sông./.

(Nguồn Hương Sen Việt)