Jul 25, 2025

“FDI cắm trại” - Luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành tựu thu hút FDI ở Việt Nam cần bác bỏ

          Tre Việt - Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia ngày càng gay gắt, việc thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vừa là vấn đề kinh tế, nhưng cũng liên quan đến độc lập, tự chủ, an ninh quốc gia. Tuy nhiên, một số thế lực thù địch, phản động lại cố tình xuyên tạc, phủ nhận nỗ lực của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập hiệu quả. Điển hình là bài đăng ngày 25/7/2025 trên trang facebook của tổ chức phản động “Việt Tân” do Phạm Ngọc Hưng thực hiện, cho rằng FDI vào Việt Nam là “FDI cắm trại”, không tạo ra chuyển giao công nghệ, không phát triển công nghiệp phụ trợ, chỉ “phát triển ngoài da thịt kinh tế quốc dân”. Đây là một luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành tựu thu hút FDI ở Việt Nam cần đấu tranh bác bỏ.

        Thứ nhất, bài viết thể hiện rõ quan điểm phiến diện, so sánh khập khiễng và có dụng ý chia rẽ, hạ thấp vị thế Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Tác giả lấy Trung Quốc làm “chuẩn” để chê bai Việt Nam mà không tính đến điều kiện lịch sử, chính trị, quy mô thị trường, cơ cấu thể chế, chiến lược phát triển của hai quốc gia là hoàn toàn khác biệt. Việc Trung Quốc gia nhập WTO trước hay áp dụng mô hình ép buộc chuyển giao công nghệ không thể là cái cớ để phủ nhận con đường phát triển riêng có, bền vững, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

        Thứ hai, việc dùng khái niệm “FDI cắm trại” để mô tả FDI tại Việt Nam là cách ngụy tạo luận điểm nhằm cổ súy cho tư tưởng hoài nghi, bi quan, đổ lỗi cho mô hình phát triển. Luận điệu này vừa mang tính phủ định sạch trơn, vừa khích lệ tâm lý bài xích thể chế, xúc phạm nỗ lực thu hút đầu tư minh bạch, có chọn lọc của Đảng và Chính phủ ta trong suốt gần bốn thập niên qua. Trái với luận điệu xuyên tạc của Việt Tân, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ sau Đổi mới đến nay không ngừng gia tăng cả về lượng và chất, đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu, giải quyết việc làm, phát triển công nghệ và hội nhập quốc tế. Theo báo cáo của Cục Thống kê, Bộ Tài chính, 6 tháng đầu năm 2025, vốn FDI thực hiện ước đạt 11,72 tỉ USD, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước (mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây), Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 9,56 tỉ USD, chiếm 81,6% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 932,2 triệu USD, chiếm 8,0%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 444,7 triệu USD, chiếm 3,8%. Bên cạnh đó, các tập đoàn đa quốc gia như Samsung, Intel, LG, Foxconn, Bosch, Toyota, Canon,… không ngừng mở rộng đầu tư, lựa chọn Việt Nam là cứ điểm chiến lược trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Những con số này đã tự bác bỏ hoàn toàn cái gọi là “FDI không mua gì từ bản địa”.

         Không dừng lại ở thu hút vốn, Việt Nam đã và đang có nhiều bước tiến trong yêu cầu doanh nghiệp FDI tham gia sâu vào phát triển công nghiệp phụ trợ và chuyển giao công nghệ. Hàng loạt khu công nghiệp chuyên biệt, trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, các chương trình kết nối doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước đang được triển khai mạnh mẽ. Chính sách thu hút FDI hiện nay không còn chạy theo số lượng, mà hướng tới “chọn lọc”, gắn chặt với mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và nâng cao năng lực nội sinh của nền kinh tế. Quan điểm nhất quán này của Đảng ta được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Trong đó, Việt Nam chủ trương thu hút FDI có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường làm tiêu chí đánh giá chủ yếu. Đồng thời, tăng cường liên kết giữa FDI và doanh nghiệp trong nước, nâng cao năng lực hấp thu công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Trên tinh thần đó, Chính phủ đã có nhiều hành động cụ thể: ban hành Luật Đầu tư sửa đổi, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, hoàn thiện hệ thống logistics, nâng cao năng lực của cơ quan xúc tiến đầu tư, tăng cường năng lực giám sát FDI sau cấp phép, v.v.

          Tóm lại, bài viết của Phạm Ngọc Hưng không những xuyên tạc về mô hình thu hút FDI của Việt Nam, mà còn ẩn chứa mưu đồ chống phá nền tảng phát triển kinh tế của đất nước, làm suy giảm niềm tin nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, cần tỉnh táo nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác, đồng thời lan tỏa những thành tựu chân thực của đất nước ta đến cộng đồng quốc tế vì một Việt Nam hùng cường, tự cường và vững bước trên con đường hội nhập./.


Cảnh giác trước luận điệu chống phá của Chân Trời Mới Media về Hội nghị Trung ương 12

         Tre Việt - Ngày 24/7, trang facebook Chân Trời Mới Media đăng status: “Việc tổ chức Hội nghị Trung ương 12 sớm bất thường, và với cách xử lý kỷ luật thẳng tay lần này, ông Tô Lâm đã gửi đi một tín hiệu rõ ràng sẽ không có chỗ cho những ai còn chần chừ chưa dứt khoát chọn phe cho mình”. Đây là luận điệu xuyên tạc, phủ nhận ý nghĩa quan trọng và những kết quả, thành công rất tốt đẹp mà Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã đạt được, nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo, chia rẽ đoàn kết, thống nhất trong Đảng và uy tín của cá nhân đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm. Sâu xa hơn cả, chính là nhằm chống phá Đại hội XIV của Đảng ta.

       Chúng ta đều biết, sáng ngày 18/7, tại tại Trụ sở Trung ương Đảng (Thủ đô Hà Nội), Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) chính thức khai mạc. Sau 2 ngày làm việc với tinh thần khẩn trương, nghiêm túc, dân chủ, trách nhiệm cao, chiều ngày 19/7, Hội nghị đã họp phiên bế mạc.

        Đây là Hội nghị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, được triệu tập sớm hơn gần 3 tháng so với kế hoạch đề ra, điều đó đã thể hiện tinh thần chủ động, khẩn trương, trách nhiệm cao của toàn Đảng trong việc chuẩn bị một cách toàn diện, kỹ lưỡng các nội dung trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Phát biểu tại phiên bế mạc, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Hội nghị đánh dấu bước đi quan trọng trong quá trình chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Kết quả của Hội nghị thể hiện rõ tinh thần đổi mới tư duy, hành động quyết liệt, đoàn kết - dân chủ - kỷ cương - sáng tạo - phát triển. Các đại biểu đã phát huy tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, thảo luận dân chủ, thẳng thắn, khách quan và cầu thị; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Không để bất kỳ lợi ích cục bộ, cảm tính cá nhân hay nể nang, né tránh làm ảnh hưởng tới chất lượng quyết sách.

         Theo đó, tại Hội nghị này, Trung ương đã bàn, quyết định nhiều vấn đề quan trọng như: tích hợp nội dung 3 văn kiện gồm Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng thành Báo cáo chính trị theo một trục xuyên suốt, thống nhất, đồng bộ để trình Đại hội XIV của Đảng. Trung ương cũng đã xem xét, cho ý kiến chỉ đạo về việc tổng kết thực tiễn, đánh giá các vướng mắc, bất cập trong một số luật và thể chế hiện hành, từ đó định hướng sửa đổi nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn pháp lý, thúc đẩy phát triển trong giai đoạn mới, như: lĩnh vực đất đai; lĩnh vực giáo dục, đào tạo; điều chỉnh quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; về kết quả sơ bộ sau 19 ngày vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp, v.v.

         Đặc biệt, Trung ương cũng đã thống nhất nhận định, phương hướng công tác nhân sự Đại hội XIV của Đảng là văn bản đặc biệt quan trọng, quyết định toàn bộ công tác chuẩn bị và bầu cử nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước, góp phần vào thành công Đại hội XIV của Đảng. Phương hướng công tác nhân sự Đại hội XIV phải có sự gắn kết chặt chẽ với phương án bố trí nhân sự đảm nhiệm các chức danh lãnh đạo chủ chốt của các ban, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị ở Trung ương, địa phương nhiệm kỳ 2026 - 2031 và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội nhiệm kỳ tới. Cùng với đó, phải có giải pháp, biện pháp hiệu quả để hạn chế, sớm khắc phục tình trạng nhân sự vừa được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoặc mới được quy hoạch, bổ nhiệm đã phải xem xét kiểm điểm, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

         Cũng tại Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức cách tất cả các chức vụ trong Đảng đối với các đồng chí: Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ, Lê Minh Khái; khai trừ khỏi Đảng đối với đồng chí Nguyễn Thị Kim Tiến; đồng ý để đồng chí Đỗ Đức Duy, thôi giữ chức Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) và đồng chí Võ Chí Công thôi giữ chức Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII).

          Điều đó cho thấy, công tác nhân sự Đại hội XIII và công tác cán bộ của Đảng đã được Trung ương bàn và quyết định rất chặt chẽ và nghiêm túc, thể hiện tinh thần đoàn kết, kỷ cương, kỷ luật của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Luận điệu mà Chân Trời Mới Media xuyên tạc: “sẽ không có chỗ cho những ai còn chần chừ chưa dứt khoát chọn phe cho mình” là sự quy chụp lố bịch, nhằm chia rẽ đoàn kết, thống nhất trong Đảng, chống phá công tác nhân sự Đại hội XIV của Đảng. Do đó, cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ./.


Bác bỏ luận điệu xuyên tạc về thực hiện dân chủ ở Việt Nam

          Tre Việt - Ngày 24/7, trang facebook Việt Tân đăng bài Không qua trưng cầu dân ý, Cộng sản Việt Nam cứ áp đặt mọi chính sách”. Đây là quan điểm phiến diện, so sánh máy móc với mô hình dân chủ phương Tây, thiếu hiểu biết đầy đủ về cơ chế tham vấn, phản biện và biểu hiện dân chủ đặc thù trong điều kiện thực tiễn Việt Nam,... cần bác bỏ thông qua làm rõ bốn khía cạnh chính.

Một là, dân chủ ở Việt Nam là dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về Nhân dân. Dân chủ không chỉ là “hình thức tổ chức chính trị”, mà còn là “phương thức tổ chức quyền lực nhân dân”. Việt Nam lựa chọn mô hình dân chủ xã hội chủ nghĩa – tức dân chủ gắn với lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng - vì nó phù hợp với lịch sử, văn hóa và điều kiện phát triển đất nước. Dân chủ không phải là “muốn gì làm nấy”, phải gắn với kỷ luật, kỷ cương; cũng không phải chỉ được thể hiện qua các cuộc trưng cầu ý kiến Nhân dân, mà được thể hiện ở nhiều hình thức, cấp độ. Trong dân chủ xã hội chủ nghĩa, bản chất là bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân, được thể hiện thông qua dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện: quốc hội do dân bầu, chính quyền các cấp do dân lựa chọn và Đảng lãnh đạo nhưng không đứng trên pháp luật. Mọi quyết sách đều phải trải qua quy trình chuẩn bị, phản biện xã hội, lấy ý kiến người dân, tổ chức đối thoại và chỉnh sửa phù hợp thực tiễn. Đây chính là biểu hiện của dân chủ thực chất, không hình thức. Vì vậy, việc đánh giá mức độ dân chủ của một quốc gia dựa trên tiêu chí trưng cầu dân ý hay mô hình đa đảng là thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn.

Hai là, chính sách của Nhà nước luôn dựa trên ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Trên thực tế, mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đều trải qua quy trình: (1). Tham vấn và lấy ý kiến Nhân dân; trước khi ban hành các luật, chính sách lớn, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành đều công bố dự thảo công khai trên Cổng thông tin điện tử để Nhân dân, chuyên gia, nhà khoa học góp ý. Ví dụ, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2023 thu hút hơn 12 triệu lượt ý kiến góp ý; Luật Căn cước công dân, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Phòng chống bạo lực gia đình... đều tổ chức trưng cầu, đối thoại, thảo luận công khai tại các cấp cơ sở. (2). Thảo luận tại Quốc hội; các đại biểu Quốc hội được bầu cử phổ thông đầu phiếu trực tiếp là người đại diện cho ý chí Nhân dân, có trách nhiệm mang tiếng nói của Nhân dân đến nghị trường, góp ý, chất vấn, giám sát và biểu quyết thông qua chính sách. Tất cả các chính sách như: các Luật, ngân sách nhà nước, quy hoạch, phát triển,… đều do cơ quan dân cử này quyết định. Đây là hình thức dân chủ đại diện đúng nghĩa.

Ba là, trưng cầu dân ý không phải là tiêu chí duy nhất của dân chủ. Điều 29 Hiến pháp năm 2013 và Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, quy định: việc trưng cầu dân ý có thể được tổ chức đối với các vấn đề lớn, như: Hiến pháp, chủ quyền quốc gia, việc gia nhập các liên minh quốc tế, chính sách đặc biệt ảnh hưởng đến đời sống toàn dân. Do đó, việc nói Việt Nam “không có trưng cầu dân ý” là sai hoàn toàn. Như vậy, trưng cầu dân ý không phải là hình thức bắt buộc đối với mọi chính sách; ngay cả nhiều nước phương Tây như Mỹ, Anh, Nhật, Canada…. cũng không thường xuyên dùng đến hình thức này.

Nhiều chính sách tại Việt Nam được quyết định bằng phương pháp dân chủ gián tiếp (thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân), dân chủ cơ sở (họp tổ dân phố, lấy ý kiến khu dân cư), và cả các hình thức dân chủ trực tiếp, như: Lấy ý kiến toàn dân về quy hoạch đô thị; Tổ chức hội nghị nhân dân tại xã/phường về các vấn đề hạ tầng, an sinh; Thực hiện mô hình “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”,... là biểu hiện thực chất, sâu sắc của dân chủ xã hội chủ nghĩa, không phải là hình thức “áp đặt” từ trên xuống. Việc phân cấp quyền lực cho cơ quan chuyên trách và đại biểu Nhân dân là mô hình phù hợp, khoa học và hiệu quả hơn là trưng cầu thường xuyên..

Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong những năm qua, như: GDP tăng trưởng liên tục, thuộc nhóm cao nhất khu vực; Tỷ lệ đói nghèo giảm từ hơn 70% (năm 1986) xuống dưới 3% (năm 2023); Hệ thống y tế, giáo dục, an sinh xã hội liên tục được cải thiện; Tham gia sâu rộng vào các hiệp định thương mại quốc tế (CPTPP, EVFTA…),... cho thấy tính đồng thuận và phù hợp của chính sách phát triển chính là minh chứng rõ ràng nhất phản bác luận điệu “chính sách áp đặt”./.

Thuế - Nghĩa vụ, trách nhiệm và sự công bằng

        Tre Việt - Để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước; đồng thời, khắc phục bất cập, bịt lỗ hổng pháp luật, chống thất thu ngân sách, gian lận thuế,… năm 2025, Nhà nước ta đã ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quy định về thuế giá trị gia tăng, hóa đơn, chứng từ, đánh dấu bước chuyển mình trong quản lý thuế, hướng tới minh bạch hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.

Tuy nhiên, lợi dụng những hạn chế bước đầu trong sử dụng hóa đơn điện tử, kỹ năng số của Nhân dân, nhất là một bộ phận người kinh doanh có tâm lý lo lắng trước chính sách thuế mới, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ráo riết tuyên truyền xuyên tạc về chính sách thuế của Nhà nước ta. Họ rêu rao trên các trang mạng xã hội rằng, chính sách thuế của Nhà nước ta là “tận thu để dân khổ”, là “siết cổ dân”, là “bóc lột tinh vi”, “phi nhân tính”, thậm chí “đẩy các doanh nghiệp đến con đường phá sản”, v.v. Thực chất đây là những luận điệu xuyên tạc, chống phá đất nước.

Trước hết, thực chất âm mưu chống phá phía sau những lời vu cáo. Những kẻ xuyên tạc chính sách thuế mới của Nhà nước ta như ở trên thực chất là những thủ đoạn cố tình cắt xén thông tin, bóp méo bản chất thuế, từ đó vu cáo Nhà nước “bóc lột dân”. Mục đích của họ là nhằm kích động bất mãn trong Nhân dân, chia rẽ lòng tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Họ không phải hành động vì dân, mà để gây bất ổn xã hội, làm suy yếu đất nước, đúng với thủ đoạn “diễn biến hòa bình” mà họ đã dùng hàng chục năm qua. Vì vậy ta phải hết sức tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Thứ hai, về nhận thức. Cần thống nhất rằng, thuế không phải là sản phẩm riêng của Việt Nam, mà là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của bất kỳ quốc gia nào, dù là tư bản, chủ nghĩa xã hội, quân chủ hay dân chủ. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước nhằm duy trì bộ máy, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý, đầu tư phát triển đất nước và bảo đảm an sinh xã hội. Các nước Bắc Âu được các tổ chức uy tín quốc tế đánh giá là những quốc gia hành phúc cũng có thuế thu nhập cá nhân lên tới 45 - 55%, VAT từ 20 - 25%. Như vậy, không có quốc gia nào phát triển mà không thu thuế. Vấn đề quan trọng là thuế thu thế nào, sử dụng ra sao, có công bằng, minh bạch và hợp lòng dân hay không.

Thứ ba, chính sách thuế mới nhằm khắc phục lỗ hổng, hạn chế trong chính sách thuế cũ. Chúng ta cần nhìn thẳng thực tế: hệ thống thuế Việt Nam còn bất cập, vẫn có tình trạng thất thu, gian lận thuế, lãng phí ngân sách. Kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh, thương mại điện tử tăng trưởng 25% mỗi năm, nhưng thất thu thuế rất lớn. Năm 2024, thuế từ thương mại điện tử chỉ chiếm 0,8% thuế thu nhập doanh nghiệp, trong khi thị trường này trị giá hơn 20 tỷ USD. Nếu không siết chặt quản lý, không điều chỉnh chính sách, sẽ nảy sinh bất công, người kinh doanh truyền thống phải đóng đủ, người kinh doanh online thì lại “né” thuế. Thuế mới ra đời không để tận thu, mà để lấp lỗ hổng, tăng minh bạch, bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế chân chính.

Thứ tư, thuế không chỉ để tăng ngân sách mà còn tạo động lực phát triển và bảo đảm an sinh xã hội. Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định thuế không chỉ để tăng thu ngân sách mà quan trọng hơn là tạo động lực phát triển, điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội. Thực tế, nhiều sắc thuế có tác dụng hướng dẫn tiêu dùng, điều chỉnh hành vi sản xuất, bảo vệ môi trường và tạo công bằng giữa các loại hình kinh doanh. Đồng thời, chính sách thuế của Nhà nước ta còn hướng tới bảo đảm an sinh xã hội - tính chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Theo Bộ Tài chính, trong tổng chi ngân sách năm 2024, có gần 700.000 tỉ đồng (27,6%) dành cho an sinh xã hội, bao gồm: trợ cấp người có công, hộ nghèo, trẻ em dưới 06 tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí, miễn giảm học phí, xây bệnh viện, trường học, v.v. Ngay cả chi cho quốc phòng, an ninh cũng là để bảo vệ vững chắc Tổ quốc; từ đó, người dân, doanh nghiệp mới yên tâm làm ăn, sinh sống và thụ hưởng hạnh phúc.

Thứ năm, Đảng, Nhà nước luôn đặt lợi ích Nhân dân lên trên hết. Chính sách thuế của Việt Nam không đặt mục tiêu tận thu mà hướng tới hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cùng phát triển. Trong đại dịch COVID-19, Nhà nước đã miễn giảm, giãn thuế cho hơn 140.000 doanh nghiệp, tổng số tiền trên 78.000 tỉ đồng, để cứu dân, cứu doanh nghiệp. Không có Nhà nước “bóc lột dân” nào lại tự nguyện từ bỏ nguồn thu như thế. Bác Hồ từng nói: “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”. Tinh thần ấy soi rọi mọi chính sách, trong đó có thuế.

Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hãy tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc chủ trưởng, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có chính sách thuế mới, đừng biến mình thành công cụ tiếp tay cho thế lực chống phá đất nước, làm tổn hại lợi ích dân tộc và cộng đồng. Nộp thuế là trách nhiệm, nghĩa vụ, là sự đóng góp tích cực của mỗi doanh nghiệp, người dân để cùng chung tay xây dựng quê hương, đất nước phồn vinh, hạnh phúc và hùng cường./.