Mar 30, 2022

Sự thực đằng sau cái gọi là “giải thưởng nhân quyền”

            Tiến sĩ Đỗ Cảnh Thìn cho rằng, việc trao giải thưởng nhân quyền cho đối tượng có hành vi chống phá Nhà nước là một hành động bất chấp tất cả những tiêu chuẩn và quy định của pháp luật quốc tế.

Nhân quyền là giá trị mang tính phổ quát toàn cầu, mỗi quốc gia tùy theo đặc điểm văn hóa và thể chế chính trị sẽ có quan điểm, góc nhìn và cách tiếp cận khác nhau về quyền con người. Vì thế, việc áp đặt quan điểm của nước này vào nước khác là không phù hợp, đó cũng được coi là hành động can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia. Vì vậy có thể khẳng định, việc một số cá nhân, tổ chức nước ngoài trao giải thưởng nhân quyền cho những đối tượng chống phá Nhà nước Việt Nam là việc làm mang ý đồ chính trị, họ đã tự “khoác” cho mình chiếc áo nhân quyền để trắng trợn can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.          

Ngày 14/12/2021, Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử đối tượng Phạm Thị Đoan Trang về tội danh tuyên truyền chống phá Nhà nước Việt Nam. Cáo trạng nêu rõ, Phạm Thị Đoan Trang phải chịu trách nhiệm hình sự vì đã nhiều lần thực hiện hành vi tàng trữ, lưu hành và tán phát các tài liệu, vật phẩm có nội dung chống phá Nhà nước Việt Nam. Với những hành vi đó, Hội động xét xử đã tuyên phạt Phạm Thị Đoan Trang 9 năm tù giam. Theo hồ sơ vụ án, Phạm Thị Đoan Trang có mối liên hệ mật thiết với các tổ chức phản động lưu vong như Việt Tân, “VOICE”. Trang cũng là một trong những người đứng đầu của tổ chức Nhà xuất bản Tự do. Đây là một tổ chức dân sự trá hình, hoạt động trái phép, chuyên xuất bản, in ấn và phát hành các ấn phẩm có nội dung tiêu cực, xuyên tạc, kích động bạo lực, chống phá Đảng, Nhà nước. Trong tổ chức này, Trang được giao nhiệm vụ phụ trách nhân sự, duyệt người trước khi đưa ra nước ngoài huấn luyện cách thức chống phá chính quyền Nhà nước Việt Nam. Với những hành vi như vậy, hình phạt 9 năm tù giam dành cho Phạm Thị Đoan Trang là thích đáng, đúng người, đúng tội. Đó cũng là việc chúng ta cần thiết phải làm để giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Tuy nhiên, một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam đã tự phong cho Đoan Trang những danh hiệu với những ngôn từ hoa mỹ. Ví dụ như mới đây, Phạm Thị Đoan Trang được Bộ Ngoại giao Mỹ trao giải Phụ nữ can đảm quốc tế; Bộ Ngoại giao Anh và Canada trao giải tự do báo chí; Tổ chức nhân quyền tự xưng Martin Ennals trao giải thưởng nhân quyền.

Ông Phan Khắc Hải, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho rằng, trong khi Phạm Thị Đoan Trang đang chịu án ngồi tù ở Việt Nam mà các tổ chức nước ngoài lại trao những giải thưởng này, đó là những điều phi lý và không có giá trị pháp lý. Phạm Thị Đoan Trang là một nhà báo, lẽ ra phải hoạt động, tác nghiệp theo đúng tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí, nhưng không, Trang đã lợi dụng quyền tự do báo chí để chống phá đất nước. Điều đó cho thấy, Phạm Thị Đoan Trang không xứng đáng với tư cách, phẩm chất của một nhà báo. Vì lẽ đó, việc một số tổ chức phong tặng, trao giải thưởng tự do báo chí cho Phạm Thị Đoan Trang là sự lố bịch về nhận thức. Họ lập luận cho rằng, Phạm Thị Đoan Trang đã sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí theo đúng những quy định của luật pháp quốc tế để bày tỏ quan điểm chính kiến của mình.

Theo lý giải của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tường Duy Kiên, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quyền con người, đây là cách lập luận không đúng và cố tính không hiểu bản chất của luật pháp quốc tế. Bởi lẽ, mặc dù luật pháp quốc tế có những quy định về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí nhưng đó không phải là quyền tự do một cách tuyệt đối. “Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là một trong những quyền tự do dân chủ về chính trị rất quan trọng đã được quy định trong các quy định của quốc tế. Nhưng theo chuẩn mực quốc tế, người ta nói là trong khi thực hiện các quyền tự do này thì lại phải chịu một số hạn chế nhất định, mà hạn chế đó là vì lý do an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội và quyền tự do của người khác”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tường Duy Kiên phân tích. Tiến sĩ Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản đưa ra minh chứng sinh động khẳng định, không thể có và không bao giờ có tự do ngôn luận, tự do báo chí một cách tuyệt đối ở bất kỳ quốc gia nào. Theo Tiến sĩ Nhị Lê, không có nền báo chí nào, dù là của phương Đông hay phương Tây, cổ vũ cho cái gọi là tự do vô hạn độ. Ngay nước Mỹ, nơi được mệnh danh là tự do, nhưng báo chí thử cổ động để lật đổ chế độ Mỹ xem, báo chí sẽ không còn tồn tại. Gần đây nhất, một tờ tạp chí của quốc gia được mệnh danh là bình đẳng, tự do, bác ái, chỉ một bức tranh biếm họa người đứng đầu tôn giáo Mohamed, tòa soạn đó lập tức bị tẩy chay.

Theo Ông Nguyễn Văn Kỷ, Phó Chánh Văn phòng Thường trực nhân quyền, việc trao các giải thưởng cho Phạm Thị Đoan Trang và một số đối tượng có hành vi chống phá Nhà nước Việt Nam là một ý đồ chính trị nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

“Qua việc tổ chức trao giải nhân quyền cho Phạm Thị Đoan Trang cho thấy một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam, họ có ý đồ kích động, chống đối phản động trong và ngoài nước, tạo cớ cho một số cá nhân, tổ chức gia tăng các hoạt động chống phá Việt Nam trong thời gian tới. Có thể khẳng định đây là những hoạt động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam”, ông Nguyễn Văn Kỷ nêu quan điểm. Còn Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Cảnh Thìn, Phó Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống cho rằng, việc trao giải thưởng nhân quyền cho đối tượng có hành vi chống phá Nhà nước là một hành động bất chấp tất cả những tiêu chuẩn và quy định của pháp luật quốc tế khi họ chọn những đối tượng có tư tưởng bất mãn, chống lại một nhà nước, chống lại sự bình yên, phát triển của một quốc gia để chọn làm ngọn cờ, tạo biểu tượng lôi kéo nhiều người khác, chống phá Nhà nước.

Đảng, Nhà nước ta luôn hoan nghênh và bảo đảm các quyền tự do, dân chủ, trong đó có quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí. Những cá nhân, tổ chức nếu đấu tranh cho dân chủ thực sự, vì hòa bình và tiến bộ xã hội, chúng ta luôn ghi nhận và ủng hộ. Tuy nhiên, nếu lợi dụng dân chủ để chống phá đất nước thì hành vi đó là không thể chấp nhận, cần kiên quyết lên án và phản đối. Bởi lẽ, bất kỳ một hành vi nào lợi dụng quyền tự do của bản thân mình để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân thì đều phải chịu xử lý theo quy định của pháp luật.

Trật tự kỷ cương chỉ có thể được thực thi khi mà pháp luật được thượng tôn. Đây chính là cơ sở vững chắc cho sự phát triển ổn định của đất nước, là tiền đề quan trọng để thúc đẩy việc bảo đảm, phát huy các giá trị quyền con người của Việt Nam./.

                                                                           (Nguồn: Phát thanh Quân đội)

Vẫn trò “vơ đũa cả nắm”

           Sau việc Ủy ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương đề nghị kỷ luật Ban Thường vụ Đảng ủy Học viện Quân y và 12 quân nhân có vi phạm, những kẻ đội lốt “dân chủ” lại lợi dụng quy chụp, thổi phồng, “vơ đũa cả nắm”… rêu rao rằng: “Tham nhũng xảy ra ở toàn quân…”(!)

Đây thực ra vẫn là trò cũ soạn lại của các đối tượng chống phá, chỉ khác mức độ, tần suất được các trang mạng phản động đưa tin, giật tít nhằm thu hút sự chú ý của dư luận, tác động xấu tới tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, hòng làm suy giảm uy tín, vai trò của quân đội, tiến tới thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội.

Thực tế cho thấy, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đều quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng thường xuyên chỉ đạo, triển khai, kiểm tra, giám sát… công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong toàn quân và quyết liệt xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật, vi phạm điều lệnh, quy định của quân đội. Vì thế, Đảng bộ Quân đội được lãnh đạo Đảng, Nhà nước đánh giá là trong sạch, vững mạnh tiêu biểu; hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ được nhân dân trân trọng, tin yêu. Tuy nhiên, dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường, một số ít quân nhân, trong đó có cả sĩ quan cao cấp, người chỉ huy đơn vị sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống… Những quân nhân vi phạm pháp luật đều được điều tra, xử lý nghiêm minh. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị tiếp tục thực hiện ngày càng quyết liệt ở tất cả các cấp, các ngành với quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, “không có hạ cánh an toàn” và đã đạt được những kết quả rõ rệt; được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Từ những vấn đề trên cho thấy, sai phạm của một số quân nhân trong thời gian qua liên quan đến tham nhũng chỉ là hiện tượng cá biệt, không phải là hiện tượng phổ biến, càng không phải là bản chất của quân đội như một số đối tượng thù địch, bất mãn, cơ hội chính trị cố tình lợi dụng để xuyên tạc, thổi phồng, quy chụp kiểu “vơ đũa cả nắm”. Do đó, mỗi chúng ta trong quá trình tiếp nhận thông tin cần phải hết sức cảnh giác, biết lựa chọn, sàng lọc và xem xét khách quan, toàn diện để tránh mắc mưu của kẻ xấu./.

          (Nguồn Hương Sen Việt)

Mar 28, 2022

Vạch trần thói suy diễn, xuyên tạc

            Tre Việt - Ngày 26/3, trang facebook Tiếng Dân News đăng bài “Xét lại chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam” của Trương Nhân Tuấn. Trong bài viết, ông ta cho rằng: “Chính sách “bốn không” của quốc phòng Việt Nam không phải tự nhiên mà có. Theo tôi, đây là sự áp đặt của Trung Quốc đối với Việt Nam như là một điều kiện để được “tái lập bang giao”,…”. Đây là sự suy diễn, xuyên tạc trắng trợn chính sách quốc phòng Việt Nam, cần bị vạch trần, lên án, bác bỏ.

Cần khẳng định ngay rằng, chính sách quốc phòng Việt Nam hoàn toàn được hình thành dựa trên quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, hơn ai hết, nhân dân Việt Nam luôn thấu hiểu giá trị của hòa bình. Vì vậy, trong suốt quá trình xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam luôn chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; giải quyết những tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế. Trong chính sách quốc phòng, Việt Nam chủ trương tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa vào sức mình là chính để bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước. Thực tế đã chứng minh rằng: Việt Nam là đất nước có độc lập, chủ quyền, nên không có chuyện Việt Nam phải làm theo sự áp đặt của bất kỳ quốc gia nào, như Trương Nhân Tuấn đã suy diễn, xuyên tạc.

Trong bài viết, ông ta còn cho rằng: “Chủ trương “bốn không” trong quốc phòng Việt Nam là Việt Nam đã từ bỏ các quyền cơ bản của quốc gia nhằm tự vệ chính đáng”. Điều này cho thấy, Trương Nhân Tuấn đã nhận thức rất ấu trĩ. Bởi, chính sách quốc phòng Việt Nam như đã nói ở trên là thể hiện quan điểm, chủ trương, đường lối để xây dựng, phát triển và bảo vệ vững chắc chủ quyền đất nước. Việt Nam thực hiện “bốn không” trong chính sách quốc phòng là nhằm không làm phương hại đến quan hệ đối ngoại với bất cứ quốc gia nào. Và, Đảng, Nhà nước, Nhân dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của đất nước bằng tất cả sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân khi bị xâm phạm.

Chính vì thế, Việt Nam luôn tôn trọng, kiên trì theo đuổi chính sách quốc phòng của mình đã đề ra. Tất nhiên, tùy theo diễn biến của tình hình thế giới và thực tế biến đổi trong quan hệ quốc tế để có sự điều chỉnh chính sách đối ngoại, chính sách quốc phòng cho phù hợp. Vì vậy, sự nhận thức ấu trĩ và suy diễn, xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam hiện nay của Trương Nhân Tuấn  cần phải lên án, bác bỏ./.

Mar 22, 2022

Đất nước, con người Việt Nam đang rất hạnh phúc

            Tre Việt – Ngày 18/3, trang facebook Đài Á châu tự do (RFA) đăng bài: “Tản mạn về hạnh phúc tại Việt Nam nhân Ngày Quốc tế hạnh phúc 20/3” của Thanh Trúc, trong bài viết, họ xuyên tạc: “Việt Nam có hạnh phúc nhưng là thứ hạnh phúc tưởng tượng và rất kêu trên giấy tờ… Quốc hiệu Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đi kèm Độc lập - Tự do - Hạnh phúc đều là biểu tượng dối trá”.

Cần khẳng định: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc luôn là mục tiêu và sự lựa chọn của các quốc gia, dân tộc. Trải qua các cuộc kháng chiến giành, giữ và bảo vệ đất nước trong lịch sử, dân tộc Việt Nam đã hiểu rõ giá trị của Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Vì vậy, dân tộc Việt Nam lựa chọn Độc lập - Tự do - Hạnh phúc gắn liền với Quốc hiệu, gắn liền với xây dựng chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan và là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh: từ một nước bị thống trị, không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng với sự đoàn kết, đồng lòng, quyết tâm của cả dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã trở thành quốc gia độc lập, người dân được tự do, làm chủ vận mệnh của dân tộc mình và được hưởng hạnh phúc. Điều đó đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong những nước tiên phong và là điểm sáng về phát triển con người, thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói, giảm nghèo, tiến bộ và công bằng xã hội, v.v. 

Chỉ số hạnh phúc hành tinh được chọn lọc từ các quốc gia, các tổ chức quốc tế và các số liệu do Tổ chức nghiên cứu kinh tế xã hội New Economics Foundation (NEF) có trụ sở chính tại Vương quốc Anh điều tra, công bố, thì từ bảng xếp hạng năm 2006, Việt Nam đứng ở vị trí số 12 trên thế giới - cao nhất châu Á. Còn, kết quả xếp hạng trong Báo cáo Hạnh phúc thế giới được biên soạn hàng năm bởi cơ quan Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố, Việt Nam nhiều lần đạt chuẩn quốc gia hạnh phúc. Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 94 trong bảng xếp hạng và lần đầu tiên lọt vào top 10 quốc gia tốt nhất cho những người nước ngoài sống và làm việc, theo báo cáo HSBC Expat 2019 được HSBC công bố. Đến năm 2021, đã tăng hạng từ thứ 83 lên 79. Đồng thời, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam từ nhóm trung bình lên nhóm có HDI cao của thế giới. Các chỉ số thành phần cũng có bước cải thiện đáng kể, đơn cử như chỉ số sức khỏe tăng từ 0,822 năm 2016 lên 0,826 năm 2020. Chỉ số giáo dục tăng tương ứng từ 0,618 lên 0,640 và chỉ số thu nhập tăng tương ứng từ 0,624 lên 0,664. Bà Caitlin Wiesen - Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, ca ngợi: Việt Nam đạt được mức phát triển con người cao là một thành tựu đáng ghi nhận và cũng tạo cơ hội cho sự phát triển tốt hơn và nhanh hơn trong giai đoạn tới. Ông Ousmane Dione - Giám đốc quốc gia của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Việt Nam thì nhận định: các chính sách kinh tế và xã hội của Việt Nam đã giúp đạt được những kết quả to lớn trong mục tiêu giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người. Việt Nam cũng được đánh giá cao về dịch vụ công, năm 2020, nước ta đã có 09 bác sĩ và 28 giường bệnh trên một vạn dân; 91% dân số đã tham gia bảo hiểm y tế. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 03 lần trong hơn 35 năm qua. Tuổi thọ trung bình của người dân tăng từ 62 tuổi (năm 1990) lên 73,7 tuổi (năm 2020). Theo Báo cáo cập nhật tháng 4/2021 của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam: chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân của Việt Nam là 73 - cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới. Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học (năm 2000) và trung học cơ sở (năm 2010); 95% người lớn biết đọc, biết viết; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tiện nghi sinh hoạt của hộ dân cư đã được cải thiện với 91,9% hộ có sử dụng ti vi; 91,7% hộ có sử dụng điện thoại (cố định, di động) hoặc máy tính bảng; 30,7% hộ có sử dụng máy vi tính (gồm máy để bàn, laptop). Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới, có khoảng 70% dân số sử dụng internet. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 03% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước); người nghèo và trẻ em dưới 06 tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí, v.v.

Đặc biệt, trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, trong đó có các chính sách hỗ trợ tiền mặt trực tiếp cho người lao động bị mất việc, ngừng việc, phải tạm hoãn hợp đồng lao động và tự do, như: ban hành các gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng (năm 2020) và 26.000 tỷ đồng (tháng 7/2021) dành cho người khó khăn vì dịch Covid-19. Việt Nam cũng đã triển khai nhiều biện pháp bảo đảm quyền tiếp cận, các điều kiện sống cơ bản, tạo thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong xã hội cùng chung tay hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn.

Thực tiễn sinh động trên, tự nó bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của RFA và Thanh Trúc. Đồng thời, là minh chứng khẳng định: đất nước, con người Việt Nam đang rất hạnh phúc. Mọi người dân Việt Nam cần tin tưởng vào đường lối, chính sách bảo đảm dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc của Đảng, Nhà nước, kiên quyết đấu tranh với luận điệu xuyên tạc về bảo đảm độc lập, tự do, hạnh phúc ở Việt Nam./.

Mar 21, 2022

Thủ đoạn bôi nhọ chính sách bảo hộ công dân Việt Nam tại Ukraine

          Chính phủ Việt Nam luôn thực thi chính sách bảo hộ công dân tại nước ngoài với tinh thần “tương thân tương ái” hỗ trợ tối đa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là các điểm nóng xung đột, chiến tranh như Trung Đông, Bắc Phi và hiện nay là xung đột giữa Nga và Ukraine.

Người Việt tại Ukraine được hỗ trợ sơ tán
khỏi vùng chiến sự (Ảnh: Bộ Ngoại giao)

Tuy nhiên, các thế lực thù địch và những thành phần tự xưng đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền luôn rêu rao các quan điểm sai lệch về chính sách bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài nhằm gây hoang mang dư luận, làm suy giảm niềm tin của công dân trong và ngoài nước đối với Đảng, Nhà nước Việt Nam. Luận điệu này thể hiện trên một số điểm sau:

Phủ nhận vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại Nga và Ukraine trong hỗ trợ người dân sơ tán khỏi vùng chiến sự. Truyền thông hải ngoại, như: đài RFA, BBC tiếng Việt, VOA, facebook của tổ chức khủng bố Việt Tân,… đã vẽ ra bức tranh quy kết chính quyền Việt Nam “đứng ngoài lề, dửng dưng với những người dân đang kẹt lại tại khu vực xung đột Nga - Ukraine”. RFA ngày 11/3/2022 đăng tải bài viết về thực trạng người dân Việt Nam tại Ukraine và vu cáo “Không thấy vai trò của toà đại sứ Việt tại các quốc gia đó ở đâu! Lại cái cảnh “dân giúp dân” như tại Việt Nam thời Covid-19 hoành hành!”. Qua đó, nội dung bài viết phủ nhận những nỗ lực của các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở Nga và Ukraine trong việc đưa ra các phương án bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khoẻ những người dân và cho rằng, khi chiến sự nổ ra đã không quan tâm sơ tán người dân. Đây là luận điệu nguy hiểm, đánh vào tâm lý những người dân đang kẹt lại các điểm nóng và gây hoang mang cho người dân trong nước về tình hình cộng đồng người Việt tại Ukraine.

Làm giảm niềm tin của người dân trong nước đối với hoạt động quản lý của cơ quan chức năng liên quan đến hỗ trợ người dân tại các quốc gia đang xung đột, chiến tranh. Sau khi vụ án liên quan đến hành vi nhận hối lộ của một số cá nhân tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao được cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, các thế lực thù địch, giới dân chủ tự xưng đã khoét sâu vào những sai phạm này để quy chụp, bôi nhọ. Nhiều bài viết các đối tượng vu cáo chính quyền Việt Nam bao che, dung túng sai phạm, đồng thời rêu rao, kích động người dân không tin tưởng vào những hoạt động hỗ trợ của chính quyền đối với kiều bào Việt Nam ở nước ngoài. Họ nhắc lại những chiến dịch sơ tán người dân tại Bắc Phi, Trung Đông giai đoạn 2011-2014, đưa các clip, hình ảnh, bài viết sai lệch về việc người Việt “phải tự mình xoay xở” với hoàn cảnh khó khăn, từ đó suy diễn, vu cáo cơ quan ngoại giao của Việt Nam không thực hiện chính sách bảo hộ công dân Việt ở nước ngoài.

Bôi lem hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, mục đích để thế giới nhìn nhận Việt Nam là quốc gia thiếu trách nhiệm trong giải quyết các vấn đề nóng trên thế giới. Việt Nam đã tham gia ký kết các Công ước về ngoại giao theo luật pháp quốc tế nên các cơ quan ngoại giao Việt Nam có cơ sở để lên tiếng yêu cầu các quốc gia đang có xung đột, chiến tranh phải có trách nhiệm đối với cộng đồng người Việt Nam. Thực tế, các cơ quan đại diện ngoại giao luôn đi đầu trong nắm diễn biến tình hình và thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản, tính mạng cho công dân theo chính sách bảo hộ của pháp luật. Tuy nhiên, nhiều cá nhân, tổ chức quốc tế có những góc nhìn thiếu khách quan, trung thực trong đánh giá hoạt động của cơ quan ngoại giao của Việt Nam. Một số tổ chức thiếu thiện chí đưa ra thông tin, hình ảnh sai lệch nhằm bôi lem, hạ uy tín Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế, các hội thảo đa phương, thậm chí lên án Việt Nam tại các phiên điều trần của nghị viện Mỹ, EU… Một số cơ quan truyền thông phương Tây tô vẽ góc nhìn lệch lạc, trái với bản chất, tạo ra dư luận xấu về hình ảnh của Việt Nam, mục đích làm cho quốc tế nhìn nhận Việt Nam là quốc gia thiếu tin cậy, thiếu trách nhiệm, thậm chí hướng lái thành “đứng ngoài cuộc” trong tham gia giải quyết các điểm nóng, xung đột trên thế giới.

Thực tế, những hoạt động tích cực của các cơ quan chức năng Việt Nam thể hiện xuyên suốt, từ chủ trương, chính sách đến hành động bảo hộ công dân Việt Nam tại nước ngoài. Điều đó được biểu hiện ở các nội dung:

Một là, Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định công dân Việt ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập quốc tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập sâu rộng với thế giới. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định chính sách nhất quán “nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân”. Nhằm cụ thể hóa tinh thần này của Đại hội XIII, Hội nghị Ngoại giao lần thứ 31 nhấn mạnh cần “triển khai toàn diện, mạnh mẽ, kịp thời, hiệu quả công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài”; “chăm lo, hỗ trợ đồng bào ta, nhất là ở những địa bàn khó khăn”. Đối với các điểm nóng, xung đột trên thế giới như tại Ukraine hiện nay, Chính phủ đã gửi Công điện 201, ngày 26/02/2022 về việc “Bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam và một số vấn đề cần lưu ý trước tình hình tại Ukraine”, yêu cầu các bộ, ngành, các cơ quan đại diện Việt Nam tại Ukraine và các nước lân cận Ba Lan, Nga, Rumania, Hungaria, Slovakia phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai các phương án bảo hộ công dân, đảm bảo an ninh, an toàn, các điều kiện cần thiết để sơ tán công dân Việt Nam khỏi vùng chiến sự, đến các nước lân cận và về nước nếu có nguyện vọng.

Hai là, dưới góc độ luật pháp, Việt Nam cam kết thực hiện chính sách bảo hộ công dân tại nước ngoài theo quy định pháp luật Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bảo hộ” (Khoản 3, Điều 17). Luật Quốc tịch Việt Nam ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Các cơ quan nhà nước ở trong nước, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thi hành mọi biện pháp cần thiết, phù hợp với pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế để thực hiện sự bảo hộ đó” (Điều 6, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014). Việt Nam cũng đã chủ động sửa đổi Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài năm 2009 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nhằm phù hợp với Công ước quốc tế như Nghị định thư bổ sung Công ước Geneva về bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế; Công ước Viên về quan hệ ngoại giao năm 1961.

Ba là, xuất phát từ thực tế thực hiện chính sách bảo hộ công dân Việt Nam ở các nước trên thế giới luôn được Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm và xác định đó không chỉ là lợi ích của mỗi cá nhân mà còn thể hiện trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam đối với công dân khi công tác, học tập làm ăn ở nước ngoài theo tinh thần “không ai bị bỏ lại đằng sau”. Ngày 6/3/2022, trong cuộc làm việc với Bộ Ngoại giao liên quan đến sơ tán công dân Việt từ Ukraine khỏi vùng chiến sự, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh: Công tác bảo hộ công dân cần được đặc biệt quan tâm; quá trình tổ chức cần thực hiện những chuyến bay miễn phí đưa trường hợp khó khăn về nước, đồng thời phải thực hiện nhất quán “ưu tiên phụ nữ, trẻ em, người già”. Đó là minh chứng cho những lời hứa thực hiện bảo hộ công dân Việt tại nước ngoài nhằm thực hiện cam kết của Chính phủ với người dân trước những diễn biến phức tạp tại Ukraine.

Mặt khác, trong những năm qua, Việt Nam đã từng tổ chức nhiều phương án, biện pháp thiết thực như lập cầu hàng không sơ tán người lao động ở Libya năm 2011 và 2014; đưa hành khách ra khỏi châu Âu do núi lửa phun trào năm 2010; giải cứu hành khách bị kẹt tại Thái Lan do khủng hoảng chính trị năm 2008; vận chuyển công dân Việt Nam trở về từ Malaysia, Trung Đông các năm 2005 - 2007, v.v. Năm 2021, Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan tổ chức gần 600 chuyến bay đưa hơn 130.000 công dân từ hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ về Việt Nam.

Thực tế đó thể hiện rõ chủ trương, chính sách và hành động thiết thực của Việt Nam trong công tác bảo hộ công dân ở nước ngoài; là bằng chứng sinh động phủ nhận những luận điệu sai trái, vu cáo của các thế lực xấu./.

                                                                                (Nguồn Hương Sen Việt)

 

Mar 18, 2022

Phát ngôn “hàm hồ” của Trần Văn

          Tre Việt - Trang facebook Chân Trời Mới Media, ngày 16/3 đăng bài “Việt Nam là nơi có thể thoải mái… tuyên truyền cho chủ nghĩa phát xít?” của Trần Văn. Để chứng minh cho tiêu đề bài viết, Trần Văn đã “săm soi” xem có bao nhiêu người chọn biểu tượng “cười” để phản hồi trước những thông tin đăng tải trên trang facebook của bà Nataliya Zhynkina là Đại biện lâm thời Ukraine tại Việt Nam về xung đột đang diễn ra tại Ukraine. Cuối bài viết, ông ta đặt câu hỏi: “Tại sao tùy tiện đề cập đến dân chủ, nhân quyền là xâm phạm an ninh quốc gia còn cổ vũ việc tạo ra cuộc chiến vì dám chối bỏ chủng tộc lại là điều bình thường?

Tre Việt thấy rằng, Trần Văn đang cảm tính, dựa vào suy nghĩ chủ quan, thiếu cơ sở để rồi phát ngôn hàm hồ về đất nước, nhân dân Việt Nam. Bởi vì:

Thứ nhất, dân tộc Việt Nam có lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước, đã phải trải qua biết bao cuộc đấu tranh để giành độc lập dân tộc với sự hi sinh, mất mát, đau thương không kể xiết mới có được như ngày nay. Nên hơn ai hết nhân dân Việt Nam hiểu, quý trọng giá trị của hòa bình. Chính vì thế, Đảng, Nhà nước, Nhân dân Việt Nam luôn nhất quán quan điểm, chủ trương mong muốn giải quyết những bất đồng, tranh chấp, xung đột giữa các quốc gia bằng biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, dựa trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế.

Thứ hai, ở Việt Nam mọi người dân được tự do sử dụng mạng xã hội theo quy định của pháp luật. Vì vậy, trước những thông tin, sự việc, sự kiện diễn ra trong nước cũng như trên thế giới, người dân đều được theo dõi, bình luận, chia sẻ, biểu cảm,… trên mạng xã hội miễn là không vi phạm quy định của pháp luật và ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia, dân tộc. Nếu chỉ dựa vào thông tin “có 20 phản hồi chọn biểu tượng… “cười”,…” hay “có 28 người biểu thị thái độ vui vẻ,…” trước các thông tin bà Nataliya Zhynkina đăng tải trên facebook cá nhân về cuộc xung đột ở quê nhà thì không nói lên bất kỳ điều gì so với hơn 67 triệu người dân Việt Nam đang sử dụng internet, mạng xã hội. Do vậy, việc Trần Văn nghi vấn: “Việt Nam là nơi có thể thoải mái… tuyên truyền cho chủ nghĩa phát xít?” là hoàn toàn không có cơ sở, mà đây là sự suy diễn, quy chụp với dụng ý xấu.

Thứ ba, ở Việt Nam không hề có chuyện: “tùy tiện đề cập đến dân chủ, nhân quyền là xâm phạm an ninh quốc gia còn cổ vũ việc tạo ra cuộc chiến vì dám chối bỏ chủng tộc lại là điều bình thường”. Ngược lại, trên thực tế, Việt Nam luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do dân chủ, nhân quyền cho công dân, khuyến khích người dân phát huy quyền tự do, dân chủ trong mọi mặt của đời sống xã hội theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Chỉ có những ai lợi dụng quyền tự do, dân chủ, có hành động, việc làm tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước, âm mưu lật đổ, xóa bỏ chế độ,… mới bị coi là xâm phạm an ninh quốc gia. Đảng, Nhà nước, Nhân dân Việt Nam lại càng không bao giờ cổ vũ, kích động chiến tranh, xung đột giữa các quốc gia. Điều này đã được khẳng định, thể hiện rõ trong đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Luật Quốc phòng, Sách trắng quốc phòng Việt Nam và luôn được thực hiện nhất quán trong cả phát ngôn và hành động./.

Mar 17, 2022

Đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối quốc phòng toàn dân

           Đường lối quốc phòng toàn dân (QPTD) là sự nhận thức nhất quán của Đảng ta nhằm xây dựng nền QPTD vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, thời gian gần đây các phần tử cơ hội chính trị và các thế lực thù địch tung ra những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD một cách lạc lõng. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD là nhiệm vụ cấp bách trong tình hình hiện nay.

Âm mưu thâm độc

Mục đích xuyên suốt của các thế lực thù địch là xuyên tạc, phủ nhận bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc; phủ nhận tính chất “tự vệ chân chính” trong đường lối QPTD của Đảng ta; hướng lái Việt Nam theo quỹ đạo của chính sách quốc phòng tư sản.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh giới thiệu về
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019. (Ảnh: qdnd)

Những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD trước hết xuất phát từ các thế lực thù địch, phản động nước ngoài. Chúng vừa trực tiếp tấn công, xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD bằng các cơ quan, tổ chức của mình, vừa gián tiếp nuôi dưỡng, ủng hộ, bảo kê các tổ chức, cá nhân phản động ở trong và ngoài nước.

Thứ hai là các tổ chức, cá nhân phản động người Việt Nam ở nước ngoài, chủ yếu là số ngụy quân, ngụy quyền. Chúng vừa tập hợp lực lượng, sử dụng chiêu bài tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD; vừa móc nối, kích động các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị trong nước cản trở, phá hoại các dự án kinh tế kết hợp quốc phòng. Thứ ba là đối tượng cơ hội, bất mãn chính trị ở trong nước với bản chất “gió chiều nào xoay chiều ấy”, khi cách mạng gặp khó khăn, thử thách, họ quay sang chống Đảng và xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD.

Nội dung các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD thể hiện ở nhiều khía cạnh, màu sắc, tính chất, mức độ khác nhau. Chúng cho rằng, Đảng ta tuyệt đối hóa vị trí, vai trò nền QPTD và mâu thuẫn trong chính nhận thức của mình. Chúng đã viện dẫn Văn kiện Đại hội VIII trước đây: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng, an ninh, coi đó là nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”. Bên cạnh đó, chúng cắt cúp nhận định về xu thế trong quan hệ quốc tế theo Văn kiện Đại hội XIII: “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn” là không phù hợp, cho nên không cần khẳng định vị trí của QPTD nữa (!)

Chúng xuyên tạc, phủ nhận các đặc trưng cơ bản nền QPTD, coi chủ trương xây dựng nền QPTD của Việt Nam là “đe dọa hòa bình các nước trong khu vực”. Ở thái cực khác, chúng “khuyên” Việt Nam từ bỏ “4 không” trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam. Chúng phủ nhận nền QPTD ở nước ta “không phải vì dân, của dân và do toàn thể nhân dân tiến hành”, “không đếm xỉa đến lợi ích chung của dân tộc”, mà “vì lợi ích của Đảng Cộng sản Việt Nam”(!). Nguy hiểm hơn, chúng phủ nhận sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng và sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng nền QPTD, tức là phủ nhận tính chính danh, chính pháp của hoạt động trọng yếu này.

Tác hại khôn lường

Phương thức, thủ đoạn của các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD luôn được thể hiện tinh vi, thâm hiểm với nhiều chiêu thức. Chúng vừa vu khống, bóp méo, cắt xén sự thật và nhận thức về đường lối QPTD; vừa so sánh, đối lập cực đoan giữa đường lối QPTD của Việt Nam với các nước khác theo chiều hướng khen, chê khác nhau, nhưng tất cả đều đi đến mục đích xuyên tạc, phủ nhận bản chất đường lối đó.

Về phương tiện, rất nhiều nhóm, tổ chức, diễn đàn khác ở nước ngoài triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin hiện đại, internet và hệ thống mạng xã hội để chống phá. Điển hình là các đài phát thanh của người Việt như: Sài Gòn Radio, Việt Nam Califonia, Diễn đàn dân chủ, Việt Nam tự do (ở Mỹ); các báo, tạp chí: Hồn Việt, Quê mẹ, Công luận (ở Pháp); Độc lập, Dân chủ và phát triển, Cánh én (ở Đức); các trang mạng điện tử và các tài khoản mạng xã hội như: Việt Tân, Đàn chim Việt, Dân chủ Việt Nam, Dân làm báo, Quan làm báo, v.v.

Các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD đã để lại những hậu quả khôn lường. Đó là sự lệch lạc, suy giảm nhận thức, phai nhạt niềm tin chính trị và lung lạc ý chí của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân vào sự nghiệp cách mạng; ảnh hưởng tiêu cực đến nhiệm vụ xây dựng tiềm lực quốc phòng, lực lượng quốc phòng và thế trận QPTD. Không những vậy, sự xuyên tạc đó còn làm rạn nứt sự thống nhất, đồng thuận trong Đảng, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tăng cường sức mạnh niềm tin về đường lối quốc phòng hòa bình, tự vệ chính nghĩa

Rõ ràng, sự xuyên tạc nêu trên của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã cố tình lờ đi một sự thật: Đặc trưng cơ bản nhất của nền QPTD là “hòa bình và tự vệ”, là thể hiện sự khác nhau về bản chất trong xây dựng nền quốc phòng của những quốc gia có độc lập chủ quyền đi theo con đường xã hội chủ nghĩa với các nước đế quốc. Việt Nam xây dựng nền QPTD vững mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đó chính là nền quốc phòng vì dân, của dân và do toàn thể nhân dân tiến hành, tiếp nối truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc ta trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chính vì đó, chúng ta cần xác định cuộc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD của Đảng ta hiện nay phải gắn chặt với thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; đồng thời gắn với đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị.

Để góp phần đấu tranh, làm thất bại âm mưu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD của các thế lực thù địch, chúng ta cần chú trọng thực hiện một số giải pháp chủ yếu. Trước hết cần quan tâm nghiên cứu, làm rõ bản chất khoa học và cách mạng của đường lối, chính sách quốc phòng của Đảng, Nhà nước ta. Đó là đường lối, chính sách quốc phòng tự vệ, chính nghĩa, trân trọng giá trị của độc lập, thống nhất, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và khát vọng được sống trong hòa bình của toàn thể dân tộc và nhân dân Việt Nam.

Hai là, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho toàn dân; giữ gìn, phát huy các chuẩn mực văn hóa của Bộ đội Cụ Hồ và bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam; chủ động, tăng cường thông tin sâu rộng với bạn bè quốc tế về mục đích, bản chất đường lối, chính sách QPTD hòa bình, tự vệ chính nghĩa của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Ba là, tiếp tục nhận diện, vạch rõ tính chất sai trái, phản khoa học, phản động của các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối QPTD; kết hợp giữa “xây” và “chống”, “xây” là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên.

Bốn là, tiếp tục chăm lo xây dựng nền QPTD vững mạnh, vun đắp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không ngừng củng cố thế trận lòng dân vững chắc, tăng cường sức mạnh niềm tin của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây chính là thành trì, nền tảng chắc chắn nhất để chúng ta chung sức đồng lòng góp phần hiện thực hóa di nguyện cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”./.  

                                                        (Nguồn Hương Sen Việt)


Hành động thiếu khách quan, không phù hợp của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ

            Tre Việt - Ngày 14/3, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken đã chủ trì trao cái gọi là giải thưởng “Phụ nữ Can đảm Quốc tế (IWOC) 2022” cho đối tượng Phạm Đoan Trang. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có đoạn viết: “Phạm Đoan Trang là một tác giả, blogger, nhà báo và nhà bảo vệ nhân quyền được quốc tế công nhận, thông qua các bài viết và phỏng vấn của mình, bà đã sử dụng các lập luận pháp lý được nghiên cứu kỹ lưỡng để vận động cho nhân quyền, pháp quyền và đưa mọi tiếng nói vào các không gian chính trị ở Việt Nam”. Còn ông Blinken, phát biểu tại buổi trao Giải, cho rằng: “Đoan Trang có công trong việc vận động cho hòa bình, công lý, nhân quyền… Chúng tôi lên án sự giam cầm bất công đối với bà. Chúng tôi kêu gọi phóng thích cho bà ngay lập tức”. Lợi dụng sự kiện này, đài RFA, VOA Tiếng Việt và các trang mạng, như: “Nhật ký yêu nước”, “Việt Tân”, “Dân luận”,… nhiều tổ chức, cá nhân, đối tượng phản động, cơ hội, chống đối chính trị trong và ngoài nước đăng tải, nhằm tung hô, cổ súy cho chiến tích của “nữ chúa trong làng dân chủ” - Phạm Đoan Trang.

Đây đã là lần thứ 3, một đối tượng vi phạm pháp luật của Việt Nam và bị xét xử vì tội “Tuyên truyền chống Nhà nước” được trao giải thưởng này. Hai đối tượng trước đó là Blogger Mẹ Nấm (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh) được trao năm 2017 và Blogger Tạ Phong Tần được trao năm 2013. Chỉ cần nhìn vào những cá nhân của Việt Nam được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ“vinh danh”, không khó để chúng ta thấy được một điểm chung, đó là: những cá nhân này đều có hoạt động chống phá đất nước dưới vỏ bọc “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do ngôn luận”, “tự do báo chí”, v.v.

Đối với những hành động này của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng phản đối thẳng thắn rằng: việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trao giải thưởng cho một cá nhân người Việt Nam đã, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đang chấp hành các bản án phạt tù vì các hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam là một hành động thiếu khách quan, không phù hợp và không có lợi cho việc phát triển quan hệ giữa hai nước. Nhưng thật tiếc, họ vẫn “mũ ni che tai”, một lần nữa trao giải thưởng “Phụ nữ Can đảm Quốc tế 2022” cho Phạm Đoan Trang - đối tượng đang phải chấp hành bản án 09 năm tù giam vì tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, theo quy định tại Điểm a, b, c, Khoản 1, Điều 88, Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội, trong khoảng thời gian từ ngày 16/11/2017 đến ngày 05/12/2018, Phạm Đoan Trang có hành vi làm, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, bài viết có nội dung nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra, Trang còn trả lời phỏng vấn truyền thông nước ngoài với nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân. Đó là bộ mặt thật của Phạm Đoan Trang, thế nhưng, tiếp nối giải thưởng “Martin Ennals 2022”, giải thưởng “Tự do báo chí Canada – Vương quốc Anh”, việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trao giải thưởng “Phụ nữ Can đảm Quốc tế 2022” cho Phạm Đoan Trang là hành động “vinh danh”, cổ súy cho kẻ tuyền truyền chống phá nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 Tre Việt nghĩ rằng, để không làm ảnh hưởng tới mối quan hệ đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cần có những nhìn nhận đúng đắn và khách quan tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Và cần chấm dứt ngay việc “vinh danh” các cá nhân vi phạm pháp luật Việt Nam./.

Mar 12, 2022

Việt Nam luôn kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ

         Tre Việt - Ngày 09/3, trang facebook Việt Tân rêu rao: “Vì tương lai cường thịnh, Việt Nam không chỉ thoát Trung, mà còn phải thoát Nga”. Đây là luận điệu lố bịch, nhằm kích động, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

Cần khẳng định rõ: Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần giữ vững hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Sẵn sàng thiết lập mối quan hệ hợp tác với tất cả các quốc gia trên thế giới, với bất cứ ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Nhất quán với chủ trương, đường lối đó, đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia thành viên Liên hợp quốc; đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với 16 nước; Đối tác toàn diện với 11 nước, bao gồm cả 05 nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

Trong mối quan hệ với Trung Quốc và Liên bang Nga, đây mà mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, Việt Nam vừa tăng cường quan hệ, vừa thúc đấy mối quan hệ với Trung Quốc và Liên bang Nga ngày càng phát triển theo hướng thực chất và hiệu quả hơn trong mọi lĩnh vực. Việt Nam và Trung Quốc phát triển quan hệ theo phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi giữa hai nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Từ khi hai nước thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện năm 2008, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã không ngừng mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực. Hiện nay, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam với kim ngạch mậu dịch giữa hai nước tăng lên không ngừng.

Quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga là mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp, truyền thống lâu đời; luôn có độ tin cậy cao và không ngừng được củng cố. Việt Nam và Liên bang Nga ký Tuyên bố chung về quan hệ Đối tác chiến lược ngày 01/3/2001; ra Tuyên bố chung về tăng cường hơn nữa quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện ngày 27/7/2012. Liên bang Nga luôn chiếm vị trí quan trọng, ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam là đối tác ưu tiên trong chính sách của Nga đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hai nước có quan hệ hữu nghị truyền thống, gắn bó, trải dài hơn bảy thập kỷ, được dày công vun đắp bởi nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước, giúp đỡ nhau chí tình trong công cuộc bảo vệ và xây dựng, phát triển đất nước. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga đang được phát huy tích cực trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt với sự hiểu biết và tình cảm sâu nặng giữa nhân dân hai nước. Bất chấp ảnh hưởng của dịch Covid-19, Việt Nam và Nga vẫn duy trì đà hợp tác tăng trưởng tích cực: năm 2020 kim ngạch đạt 4,85 tỉ USD, tăng 9% so với năm 2019; trong năm 2021 đạt 2,6 tỉ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ 2020.

Việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả quan hệ với các nước lớn, nhất là quan hệ với Trung Quốc và Liên bang Nga là đúng đắn, phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán và thực hiện đúng đắn, sáng tạo chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, do vậy vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Việt Nam luôn giữ vững sự độc lập, tự chủ trong các mối quan hệ quốc tế nên Việt Nam không phụ thuộc vào ai, kể cả Trung, Nga hay bất kỳ quốc gia nào khác. Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại đa phương và rộng mở, không liên minh, liên kết với bất kỳ nước nào, nên không có chuyện phải đặt vấn đề thoát nước này hay thoát nước kia; không thể và không ai có thể yêu cầu Việt Nam phải thoát nước này, thoát nước khác. Tuy nhiên, giữ vững độc lập, tự chủ, thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ thực sự là vấn đề không đơn giản, bởi sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, sự cản trở, chống phá của các thế lực thù địch, tính chất phức tạp của quan hệ quốc tế, nhất là quan hệ giữa các nước lớn trong bối cảnh hiện nay.

Độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để chúng ta bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trước mọi tác động của tình hình, trước những biến động của thời cuộc; đồng thời, khẳng định tính đúng đắn của đối ngoại Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, mọi sự xuyên tạc, kích động của Việt Tân và các thế lực phản động, chống đối đều vô ích./.

Mar 9, 2022

Trò “bới lông tìm vết”

           Tre Việt - Thời gian qua, một số đối tượng đăng tải nội dung cho rằng: dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam phải trải qua nhiều “biến cố bi thảm”. Rồi họ tung tin: sau những “biến cố bi thảm”, ngày càng có nhiều người dân, cán bộ, đảng viên “nhận ra bản chất thật của chế độ Cộng sản”, dẫn đến tình trạng “nhạt Đảng, phai Đoàn, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin”. Đây là trò “bới lông tìm vết” nhằm xuyên tạc, bôi nhọ, nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Cần khẳng định rằng: vai trò, thành tựu lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước, dân tộc Việt Nam là không thể phủ nhận. Ngược dòng lịch sử, khi chưa có Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta rơi vào cảnh lầm than dưới ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân. Trong hoàn cảnh đó, đã có nhiều sĩ phu yêu nước đứng lên khởi nghĩa nhưng đều bị thất bại mà nguyên nhân là do khủng hoảng về đường lối lãnh đạo. Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo cách mạng. Kể từ đó, lịch sử đất nước Việt Nam đã bước sang một trang mới. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, giữ vững độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Chiến tranh kết thúc, đất nước bị tàn phá nặng nề, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta đã dần từng bước phát triển, đi lên, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Việt Nam đã phát triển toàn diện trên các lĩnh vực, khẳng định được vị thế, uy tín trên trường quốc tế. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc đổi mới đất nước.

Tất nhiên, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng có thời điểm không thể tránh khỏi khuyết điểm, sai lầm, song Đảng ta luôn sớm nhận ra để có biện pháp khắc phục kịp thời. Nhưng các phần tử cơ hội chính trị, bất mãn, tiêu cực lại lợi dụng, soi mói, bới móc những sự kiện diễn ra trong lịch sử rồi quy chụp, đả kích, chống phá, nói xấu chế độ. Thực chất những sự kiện đó đều do yếu tố lịch sử, do những cá nhân đó tự gây ra chứ không phải là lỗi của Đảng, đất nước. Đơn cử như sự việc được họ đưa ra là: các “thuyền nhân” chết trên biển trong quá trình vượt biên ra nước ngoài sau ngày 30/4/1975 hay những người “đấu tranh cho dân chủ nhân quyền” bị bắt giữ, điều tra, xét xử, chịu các bản án tù, v.v. Đây đều là do lỗi của cá nhân tự gây ra, chuốc lấy. Bởi, sau khi giải phóng, Đảng, Nhà nước ta không bắt những người dân sống trong chế độ cũ vượt biển ra nước ngoài mà do họ tự chọn con đường đó và hiện nay những người tự xưng là “đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền” nhưng thực chất là họ cố tình lợi dụng tự do, dân chủ để chống phá Đảng, Nhà nước, là cố tình vi phạm pháp luật, chứ các cơ quan thực thi pháp luật của Nhà nước không bắt, bỏ tù oan sai cho ai cả.

Thực tế quá rõ ràng, nhưng họ lại cố tình lờ đi, “giả mù, giả điếc” trước những thành tựu to lớn của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, để rồi tự nghĩ ra luận điệu: sau những “biến cố bi thảm”,… dẫn đến tình trạng “nhạt Đảng, phai Đoàn, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin” nhằm kích động, làm hoang mang dư luận. Chỉ những kẻ cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, “trở cờ” với Đảng, với chế độ mới suy nghĩ, hành động như vậy. Và đó là trò “bới lông tìm vết” của những người thâm thù với Việt Nam; họ không phải là những người đại diện cho nhân dân và cán bộ, đảng viên trong cả nước./.

Mar 6, 2022

USCIRF lại diễn “trò cũ”

          Tre Việt - Như thường lệ, trong báo cáo về tình hình tôn giáo quốc tế năm 2021 của mình, USCIRF (Ủy hội Hoa Kỳ về tự do tôn giáo quốc tế) lại “khuyến nghị” với Chính phủ Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách CPC (các quốc gia cần được quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo). Đây là việc làm không khách quan, không tôn trọng sự thật của USCIRF. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã đăng tải, phát tán nhiều bài viết xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, 
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam 
thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước thăm và chúc mừng
Lễ Giáng sinh 2021 tại Giáo phận Vinh (Nghệ An)

Song thực tiễn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã bác bỏ luận điệu xuyên tạc trên, bởi:

Các tôn giáo ở Việt Nam hoạt động đúng pháp luật, có những đóng góp tích cực trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Điều 21, Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016, hiện nay ở Việt Nam có 43 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo đã được Nhà nước công nhận hoặc cấp đăng ký hoạt động. Các tổ chức tôn giáo được công nhận cơ bản hoạt động theo đúng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của tôn giáo trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong phòng, chống dịch Covid-19, các tôn giáo đã có những hoạt động tích cực, phát huy tốt các nguồn lực của mình, góp công, góp của cùng cả nước đồng lòng chống dịch.

Ngược lại, các “tôn giáo” mà các thế lực thù địch, phản động đưa ra, như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Phật giáo Hòa Hảo độc lập, Pháp Luân Công, một số hệ phái, tổ chức trong các tôn giáo,…. đều không đủ các điều kiện theo Điều 21, Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016 của Việt Nam. Trên thực tế, các tổ chức này thường có những hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, câu kết với các thế lực phản động ở nước ngoài tán phát các tài liệu phản động, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tập hợp lực lượng chống đối, gây rối, biểu tình, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự xã hội nói chung, sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào có đạo nói riêng. Họ đã không làm gì cho đất nước, cho người dân mà chỉ làm những việc trái với luân thường đạo lý, truyền thống văn hóa dân tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Đảng, Nhà Việt Nam luôn nhất quán và bảo đảm, tạo mọi điều kiện để các tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo. Điều này được thể hiện tại Điều 24, Chương II, Hiến pháp 2013 quy định: Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Và được minh chứng trong thực tiễn: Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, có những chủ trương, chính sách đúng đắn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật và đường hướng hành đạo đã xác định. Trong thời kỳ đổi mới, các tổ chức tôn giáo có những biến đổi theo hướng đồng hành cùng dân tộc, tăng nhanh về số lượng tín đồ, các công việc nội bộ được tôn trọng, các hoạt động in ấn, xuất bản được mở rộng. Song một lẽ đương nhiên, Việt Nam cũng như các quốc gia khác: kiên quyết xử lý việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở, phá hoại cuộc sống yên bình của người dân.

Còn các tổ chức, cá nhân mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị gọi là “Tù nhân lương tâm”, “Đức Tăng”,… vu cáo chính quyền “hành hung thể xác, trục xuất, giam giữ, bỏ tù và buộc từ bỏ đức tin”, “ngược đãi”, “hành hạ”, “đàn áp”, “ngồi tù dài hạn”,… là hoàn toàn vu khống trắng trợn. Họ cố tình “đổi trắng thay đen” đánh đồng giữa các tổ chức, cá nhân lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật với các tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm việc sống “tốt đời, đẹp đạo”.

Phải khẳng định rõ là: mọi công dân phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật. Chức sắc, tín đồ các tôn giáo cũng vậy. Mọi hành động cản trở công cuộc đổi mới, không “ích nước, lợi dân” đều bị xử lý theo pháp luật, không có ngoại lệ. Các cá nhân, tổ chức bị xử lý vì vi phạm pháp luật, không phải vì họ theo tôn giáo này hay tôn giáo khác.

Tre Việt thấy: “Khuyến nghị” của USCIRF cũng như luận điệu của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đưa ra chỉ là sự suy diễn phiến diện, xuyên tạc sự thực về tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Nó hoàn toàn vô căn cứ, nó là thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo hòng chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam của họ mà thôi. Vì thế, xin đừng diễn lại “trò cũ”./.

Mar 4, 2022

Vẫn là cái nhìn phiến diện về nhân quyền Việt Nam

           Tre Việt - Lợi dụng sự kiện Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn có bài phát biểu tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc vừa diễn ra tại Geneva, Thụy Sĩ, ngày 03/3, kênh VOA tiếng Việt đăng bài “Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn: Việt Nam “bảo đảm” toàn bộ nhân quyền cho toàn dân”. Trong bài viết, VOA đã đưa thông tin giới hoạt động nhân quyền đã lên tiếng chỉ trích bài phát biểu và cho rằng: tình hình vi phạm nhân quyền của nước này (Việt Nam) “rất nghiêm trọng” hay “Chính phủ Việt Nam luôn rêu rao là bảo đảm quyền con người nhưng trong thực tế thì hạn chế nhiều quyền cơ bản của công dân, đặc biệt là các quyền như tự do ngôn luận, lập hội, tôn giáo và niềm tin”. Đây vẫn là những đánh giá phiến diện, thậm chí vu khống trắng trợn về tình hình nhân quyền tại Việt Nam, cần lên án, bác bỏ.

Cần khẳng định rõ: quan điểm, chủ trương xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn lấy người dân là trung tâm, là động lực của phát triển. Chính vì thế, Việt Nam luôn phấn đấu mang lại cho nhân dân những điều tốt đẹp nhất. Đây cũng chính là những giá trị mà Liên hợp quốc cam kết mang lại cho nhân loại. Nhất quán với quan điểm của mình, trên thực tế, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nỗ lực bảo đảm tốt nhất các quyền con người, quyền công dân. Nhờ vậy, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đều được quy định cụ thể và bảo đảm thực thi bằng các văn bản pháp luật hiện hành. Đơn cử như trong hoạt động báo chí, ngôn luận có Luật Báo chí; hoạt động tôn giáo có Luật tín ngưỡng, tôn giáo; lĩnh vực internet, mạng xã hội có Luật An ninh mạng,… đây là hành lang pháp lý để mọi người dân tự do thể hiện biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng theo khuôn khổ pháp luật.

Chính vì được tạo điều kiện thuận lợi nên ở Việt Nam hiện nay có gần 800 cơ quan báo chí đang hoạt động; có hơn 70,3% dân số sử dụng internet, mạng xã hội, chiếm tỷ lệ cao trong khu vực và thế giới. Cùng với đó, có 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận và đang hoạt động với sự tham gia của hàng chục triệu tín đồ. Thực tế này đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; đồng thời, khẳng định “bức tranh” về nhân quyền ở Việt Nam rất sáng và sống động, đúng như Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn đã phát biểu “Việt Nam bảo đảm tất cả quyền con người cho tất cả mọi người”.

Vậy nhưng, những kẻ vốn có thâm thù, ác cảm với chế độ xã hội ở Việt Nam lại luôn có cái nhìn phiến diện, không khách quan về tình hình nhân quyền Việt Nam. Họ cố tình không chịu nhìn nhận, đánh giá đúng sự thật là: ở Việt Nam không có cái gọi là tù nhân lương tâm; không có chuyện những công dân chỉ biểu đạt ôn hòa mà bị bắt giam, đi tù. Việc bắt giữ, điều tra, xét xử chỉ xảy ra đối với những công dân vi phạm pháp luật, đã được các cơ quan điều tra thu thập đầy đủ bằng chứng phạm tội. Và hoàn toàn không có chuyện “mỗi năm bỏ tù hàng chục người chỉ vì họ thực hành hoặc cổ súy các quyền trên” như những người đội lốt “hoạt động nhân quyền” vẫn rêu rao, vin cớ để thực hiện dã tâm thâm độc, hòng làm xấu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam./.

Cảnh giác trước “cơn bão” tin giả về xung đột Nga - Ukraine trên các nền tảng mạng xã hội

         Trong những ngày qua, khi căng thẳng giữa Nga và Ukraine bùng phát thành xung đột quân sự, thông tin thời sự về các sự kiện liên quan xuất hiện tràn ngập trên báo chí và các nền tảng số.

Tin giả về tình hình Ukraine
được nhiều người chia sẻ trên mạng xã hội,
sau đó đã được xác định là tin giả mạo

Các thông tin trên nhận được sự quan tâm rất lớn từ người dân đến từ mọi lứa tuổi. Đặc biệt với sự phổ biến của các nền tảng mạng xã hội, thông tin được cập nhật liên tục tới từng phút, từng giây. Tuy nhiên, trong vô vàn những thông tin liên quan tới tình hình xung đột, có rất nhiều thông tin giả mạo, không được kiểm chứng, thậm chí lợi dụng tình hình xung đột giữa Nga và Ukraine để xuyên tạc, gây chia rẽ.

Khi lướt trên các nền tảng số, như: Youtube, Tiktok hay facebook,… bạn đọc không khó để tìm ra các dòng trạng thái, bình luận hay thông điệp cài cắm liên quan tới tình hình xung đột căng thẳng tại Ukraine. Tuy nhiên, đáng tiếc là rất nhiều thông tin trong đó phần lớn là không được kiểm chứng, thông tin sai sự thật. Đây là hiện tượng rất nguy hiểm không chỉ làm nhiễu loạn thông tin, kích động bạo lực, tạo các trào lưu trái chiều, thậm chí là ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.

Có thể lấy ví dụ gần đây nhất là việc một bức ảnh về một người mẫu nước ngoài mặc quân phục qua những thông tin không được kiểm chứng đã biến thành một nạn nhân của cuộc khủng hoảng Ukraine nhận được lượt bình luận, thích và chia sẻ lớn trên mạng xã hội. Tuy nhiên, thông tin này sau đó được xác định là giả mạo.

Từ những hiện tượng trên, bạn đọc phải cảnh giác, tỉnh táo khi tiếp nhận thông tin; nên tìm hiểu thông tin từ các nguồn chính thống, có kiểm chứng, cũng như hạn chế chia sẻ hay lan tỏa các thông tin không nắm rõ được nguồn gốc hay bản chất của vấn đề. Như vậy, chúng ta sẽ góp phần vào hạn chế sự bùng phát của tin giả./.

                                                                (Trích nguồn: qdnd.vn)


Mar 2, 2022

Việt Tân lại lộng ngôn

           Tre Việt - Những ngày qua, trang facebook Việt Tân đăng cái gọi là: “Bản lên tiếng”; trong bài viết này, họ dùng những lời lẽ hết sức lộng ngôn, khi xuyên tạc rằng: “Chính phủ của Thủ tướng Phạm Minh Chính bỏ mặc không lo cho sự an nguy của những người Việt Nam đang sống tại Ukraine”.

Qua các phương tiện thông tin đại chúng, được biết: từ ngày 24/02/2022, tình hình chiến cuộc ở Ukraine diễn biến phức tạp, nhanh chóng lan rộng trên lãnh thổ Ukraine, đe dọa trực tiếp đến an toàn tính mạng, tài sản của người dân, doanh nghiệp; trong đó, có khoảng 7.000 người Việt Nam đang cư trú tại Ukraine, chủ yếu là Kharkiv, Odessa và thủ đô Kyiv và một số nơi khác. Với mong muốn hòa bình, ổn định và cuộc sống bình thường sẽ sớm trở lại tại Ukraine, một trong những quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là bảo đảm an ninh và an toàn cao nhất về tính mạng, tài sản, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho công dân và pháp nhân Việt Nam ở Ukraine và các nơi có liên quan. Trước những diễn biến phức tạp tại Ucraina, Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao đã khuyến cáo công dân Việt Nam tránh đến các khu vực đang có xung đột nếu không thật sự cần thiết; thường xuyên theo dõi và nghiêm túc tuân thủ những cảnh báo, hướng dẫn của các cơ quan chức năng địa phương và Đại sứ quán Việt Nam tại Ucraina để đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản. Ngày 26/02, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Công điện số 201/CĐ-TTg gửi các Bộ trưởng, Thủ trưởng Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan trực thuộc Chính phủ; Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về bảo hộ công dân Việt Nam tại Ukraine, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các hãng hàng không của Việt Nam chuẩn bị sẵn sàng kế hoạch đưa người Việt và thành viên gia đình về nước theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao và kiến nghị biện pháp phù hợp đối với những vấn đề vượt thẩm quyền.

Ngày 01/3, trả lời câu hỏi của phóng viên Việt Nam và nước ngoài đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước diễn biến căng thẳng tại Ukraine và công tác bảo hộ công dân Việt Nam, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết: Việt Nam rất quan tâm, theo dõi sát sao những diễn biến xung quanh tình hình tại Ukraine và tình hình người Việt Nam tại địa bàn; hiện có khoảng 7.000 người Việt Nam sinh sống, làm việc và học tập tại Ukraine và chưa có thiệt hại. Với chủ trương dành ưu tiên bảo vệ an toàn cao nhất về tính mạng, tài sản, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân và pháp nhân Việt Nam ở Ukraine, ngay khi xuất hiện những diễn biến căng thẳng, Bộ Ngoại giao đã khẩn trương triển khai công tác bảo hộ công dân.

Bộ Ngoại giao đã chỉ đạo Đại sứ quán Việt Nam tại Ukraine thường xuyên liên hệ, chủ động trao đổi với cộng đồng người Việt Nam tại Ukraine để nắm tình hình, cử cán bộ trực đường dây nóng bảo hộ công dân 24/24, sẵn sàng tiếp nhận thông tin, kịp thời hỗ trợ bà con; trao đổi, đề nghị các cơ quan chức năng sở tại có biện pháp hỗ trợ, bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản cho công dân và doanh nghiệp Việt Nam tại Ukraine; phối hợp với các cơ quan chức năng trong nước khẩn trương xây dựng, sẵn sàng các phương án bảo hộ công dân.

Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài đã thiết lập kênh thông tin với các hội đoàn tại Ukraine nhằm cập nhật thông tin, tìm hiểu tình hình và hướng dẫn bà con các biện pháp an toàn cần thiết; đề nghị, hướng dẫn các hội đoàn các nước lân cận sẵn sàng các biện pháp hỗ trợ cộng đồng người Việt ở Ukraine khi sơ tán sang như hỗ trợ sinh hoạt, đi lại,…

Các đơn vị trong Bộ Ngoai giao đã khẩn trương triển khai Công điện số 201/CĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và sự chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ. Theo đó, Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan chức năng và các hãng hàng không trong nước, các cơ quan đại diện tại Ukraine, khu vực lân cận đã xây dựng phương án đảm bảo an ninh, an toàn, các điều kiện cần thiết để sơ tán công dân Việt Nam khỏi vùng chiến sự và về nước nếu có nguyện vọng.

Các cơ quan đại diện Việt Nam ở Ba Lan, Nga, Romania, Hungary trực đường dây nóng bảo hộ công dân; trao đổi và phối hợp cơ quan chức năng sở tại cập nhật tình hình người Việt từ Ukraine sang, đề nghị tạo thuận lợi cho việc nhập cảnh, quá cảnh và lưu trú tạm thời, cung cấp nhu yếu phẩm cần thiết cho người Việt Nam; phối hợp với các hội đoàn cộng đồng hỗ trợ người sơ tán. Bộ Ngoại giao cũng đã đề nghị các nhà chức trách của các bên liên quan tạo hành lang an toàn cho bà con ta sơ tán”. Việt Nam đã đề nghị các cơ quan thuộc Liên hợp quốc và các nước tại địa bàn phối hợp đảm bảo các điều kiện thiết yếu, an ninh, an toàn, sơ tán kiều dân. Đến trưa ngày 01/3, đã có khoảng 200 người được Đại sứ quán và các hội đoàn tại Ukraine hướng dẫn và hỗ trợ sơ tán ra khỏi vùng chiến sự.

Đó là những việc làm rất kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan chức năng, đặc biệt là Bộ Ngoại giao để bảo vệ an toàn cao nhất về tính mạng, tài sản, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân và pháp nhân Việt Nam ở Ukraine. Sự thực trên là minh chứng bác bỏ sự xuyên tạc và lộng ngôn của Việt Tân, khi cho rằng: “Chính phủ của Thủ tướng Phạm Minh Chính bỏ mặc không lo cho sự an nguy của những người Việt Nam đang sống tại Ukraine”!