Oct 29, 2015

SỰ SUY DIỄN LỐ BỊCH

        Đảng ta công bố Dự thảo các văn kiện Đại hội XII của Đảng với mong muốn đón nhận, tiếp thu những đóng góp hợp lý của nhân dân để bổ sung, hoàn thiện đường lối lãnh đạo trong nhiệm kỳ tới. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch tăng cường chống phá, trong đó việc thổi phồng những yếu kém bất cập để rồi suy diễn, xuyên tạc là một chiêu trò của chúng.

Trong Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XII, Đảng ta đánh giá: “Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”. Đó là thể hiện tinh thần thẳng thắn, nghiêm túc, dũng cảm, nhìn thẳng vào sự thật, không che dấu khuyết điểm; đồng thời, thể hiện sự cảnh tỉnh, phản tỉnh sâu sắc cũng như ý thức cầu thị của Đảng trước vận mệnh của Tổ quốc và chế độ. Lợi dụng điều này, một số kẻ mang danh nhà “dân chủ” ra sức thổi phồng, phóng to sự đánh giá hết sức khách quan, trung thực, cầu thị trên. Từ đó, họ cho rằng bốn nguy cơ: tụt hậu về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan niêu; “diễn biến hòa bình” được nói đến lần đầu tiên tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01-1994), 21 năm sau chúng chẳng những vẫn tồn tại mà còn khỏe mạnh hơn. Như vậy là Đảng đã thất bại. Nếu bảo thành công thì tại sao từ “bốn nguy cơ” lại đẻ thêm ra hai nguy cơ cực kỳ nguy hiểm được gọi là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng? Vì vậy giấc mơ xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” từ khi có đổi mới năm 1986 cũng đã tan ra mây khói, v.v.
Thật trơ trẽn khi đưa ra nhận định trên, họ không những không khách quan, thiếu căn cứ thực tiễn, phi lô-gích, không xuất phát từ cơ sở luận cứ nào, mà họ còn cố tình giả mù, giả điếc trước những thành tựu của Việt Nam đạt được trong công cuộc đổi mới gần 30 mươi năm qua. Hiện Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, quy mô và tiềm lực kinh tế liên tục tăng lên, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam bình quân giai đoạn 1990 - 2014 đạt 6,9% năm; riêng GDP năm 2015 đạt khoảng 204 tỷ USD gấp 30 lần năm 1990; thu nhập bình quân năm 1990 đạt 96 USD/người, thì năm 2015 đạt 2.200 USD/người, tăng gấp 21 lần so với trước thời kỳ đổi mới (năm 1986). Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới tại Hội nghị Đối tác Phát triển Việt Nam (ngày 05-12-2014), trong giai đoạn khủng khoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (2008 - 2013), tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 4,6%, trong khi đó: In-đô-nê-xi-a là 4,5%; Phi-líp-pin là 3,3%; Thái Lan là 2,7%, Ma-lai-xi-a là 2,6%. Đây liệu có phải là bằng chứng đủ làm sáng mắt những nhà “dân chủ” giả mù hay suy diễn? Nếu chưa thuyết phục thì những nhà “dân chủ” chống mắt mà nhìn cho rõ: trước đổi mới Việt Nam phải nhập khẩu lương thực thì đến nay lại là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới; mới nhất, ngày 05-10-2015, Việt Nam đã ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới. Như vậy, chắc hẳn đủ kín để bịt mồm mấy kẻ lải nhải rằng nền kinh tế Việt Nam hiện nay tụt lùi so với trước.
Không chỉ kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển mà chính trị - xã hội cũng ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hoá - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi, đẩy lùi được đói nghèo, lạc hậu. Việt Nam đã hoàn thành hầu hết và cơ bản các chỉ tiêu Thiên niên kỷ. Đặc biệt là đã thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, riêng trong giai đoạn 2011 - 2015 Việt Nam đã giành tới 364.000 tỷ đồng để xóa đói, giảm nghèo; nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 58,1% năm 1993 xuống còn gần 6% năm 2014 và dự kiến dưới 5% vào năm 2015. Việt Nam không chỉ biểu tượng của “chủ nghĩa Anh hùng cách mạng” mà còn là tấm gương “xóa đói, giảm nghèo”, là điểm sáng thu hút bạn bè đến đầu tư, thăm quan, du lịch.
Cùng với đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng (Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân). Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Trên bình diện quốc tế Việt Nam Nam tham gia ngày càng mạnh mẽ vào đời sống chính trị thế giới. Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 180 nước và vùng lãnh thổ, trong đó quan hệ đối tác Chiến lược và đối tác Toàn diện với 13 nước. Việt Nam, là: thành thành viên chính thức của WTO; Ủy viên Hội đồng Nhân quyền tại Đại hội đồng Liên hợp quốc (khóa 68); Tổng Thư ký ASEAN nhiệm kỳ 2013-2017; Chủ tịch Đại hội đồng Liên minh Nghị viện IPU-132,… và là một thành viên có trách nhiệm cao trong giải quyết các vấn đề đặt ra.
Những thành tựu trên khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Đó là sự thật, không một ai, một thế lực nào có thể phủ nhận!
Tuy nhiên, bên cạnh đó những biểu hiện của bốn nguy cơ mà Đảng ta đã xác định vẫn luôn hiện hữu, nhất là: tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nạn tham nhũng và tệ quan niêu; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có xu hướng diễn biến phức tạp trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Thiết nghĩ, đó cũng là lẽ tự nhiên của quá trình vận động phát triển mà bất cứ một quốc gia, thể chế chính trị nào cũng gặp phải, không riêng gì ở Việt Nam. Việc khắc phục những biểu hiện trên không hề đơn giản, nó thực sự là cuộc đấu tranh phức tạp; đòi hỏi phải kiên quyết, kiên trì, lâu dài. Gần đây việc Chủ tịch Hội đồng Liên hợp quốc (khóa 68) Rôn-hát tham nhũng 1,8 triệu USD là một minh chứng sinh động nhất cho vấn nạn này, v.v. Vấn đề quan trọng là: phải thẳng thật, dũng cảm nhìn thẳng vào thực tiễn để đánh giá đúng sự thật, nhất là những khuyết tật, những yếu kém. Từ đó, đề ra đường lối, hoạch định chính sách và triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp khắc phục thì mới tồn tại, phát triển. Xin mạn phép hỏi các nhà “dân chủ” giả dạng: có ai nắm tay từ tối đến sáng không? Trong đời liệu có ai không vấp ngã và không có những sai lầm, khuyết điểm không? Chắc là không có phải không thưa những nhà “dân chủ”?
Thế thì, việc Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đánh giá đúng sự thật”, công khai thừa nhận những khuyết điểm, cũng như cảnh báo những nguy cơ cực kỳ nguy hiểm đang hằng ngày tác động trực tiếp đến quá trình lãnh đạo của mình để có các giải pháp đấu tranh, khắc phục là việc làm hết sức bình thường, là lẽ tự nhiên hợp quy luật; tất cả vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bởi, nếu không tự nhìn nhận đánh giá đúng khuyết điểm thì sẽ không biết khắc phục từ đâu, biết đổi mới cái gì? Điều đó tất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Sự sụp đổ, tan rã của Đảng Cộng sản ở Liên - Xô và các nước Đông Âu vào những năm 90 của thế kỷ trước là một bài học vô cùng đắt giá đã chứng minh điều đó. Hẳn nhiên, các thế lực thù địch đang muốn tái diễn kịch bản đó ở Việt Nam? Vì thế, họ dùng trăm phương nghìn kế với nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc để chống phá cách mạng Việt Nam là điều không có gì lạ.
Điều đáng bàn là sự ngô nghê, giả mù, giả điếc của các nhà “dân chủ” không xuất phát từ cái tâm trong sáng mà là từ dụng ý xấu, luôn soi mói nhìn xã hội chỉ một màu xám, để rồi dùng chiêu thổi phồng những hạn chế, khuyết tật vốn tồn tại và sống “tầm gửi” giống như họ bên cạnh sự phát triển của bất cứ xã hội, thể chế chính trị nào cũng có, cũng phải đương đầu giải quyết. Nực cười hơn, khi họ cố suy diễn từ những biểu hiện, hiện tượng bên ngoài của sự việc, như: từ những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Đảng ta đã nêu, họ cho rằng đó là bản chất, từ đó quy đồng cộng lại theo kiểu toán học của các cháu lớp một, lớp hai,... thành nguy cơ rồi hàm hồ đưa ra những luận điệu sai trái để phát tán nhằm gây nhiễu loạn xã hội, hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thật là sự suy diễn hết sức lố bịch của những nhà mang danh “dân chủ” - đồ “ếch ngồi đáy giếng” đòi luận anh hùng!

Oct 24, 2015

Chỉ xằng bậy

TRE VIỆT - Trên trang Dân làm báo vừa có bài viết xằng bậy Nói với Dư luận viên, đảng viên mù đảng, cuồng Hồ” của Lê Nguyên. 
Mở đầu bài viết đã thấy sặc mùi xằng bậy, khiến người dù có kiên trì cũng khó mà đọc hết bài viết này, dù nó không dài. Lê Nguyên viết rằng: “Sự thật đã rõ, Hồ Chí Minh vì tiền, lãnh tiền cộng sản quốc tế để làm cái việc mà tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản gọi là “hoạt động cách mạng” (!)Lê Nguyên vu khống Hồ Chí Minh “vì tiền” một cách trơ chẽn đến thế là cùng. Cả dân tộc ta, cả thế giới đều rõ Hồ Chí Minh “cả cuộc đời vì nước, vì non”. Người hy sinh hạnh phúc riêng để toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng. Cuộc đời của Hồ Chí Minh luôn với bộ quần áo ka ky bạc màu, đôi dép cao su, chiếc xe ô tô cũ kỹ,… Ngày nay, những ai vào thăm nơi ở và làm việc của Người đều rất xúc động trước sự giản dị của vị Chủ tịch nước với ngôi nhà sàn nhỏ nhắn, đồ dùng rất đỗi bình dị. Những đồ dùng giản dị đó “mà biết nói năng thì hàm răng của Lê Nguyên cũng chung số phận như hàm răng của thầy địa lý trước kia vậy.
Lê Nguyên hậm hực khi Hồ Chí Minh đưa chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, nhưng hắn ta cũng buộc phải trích blogger Kami, và đây là những gì mà Lê Nguyên thừa nhận. Hắn ta viết: “blogger Kami một “bỉnh bút” quen thuộc với một số trang báo lề dân (lề trái), có văn phong khá mạnh bạo phê phán Đảng, chế độ cộng sản với lý lẽ khá thuyết phục”, nhưng Kami cũng phải thừa nhận: “...Việc ông Hồ Chí Minh lựa chọn cho mình con đường cộng sản và mang nó về áp đặt cho nền chính trị Việt Nam trong thế kỷ XX để tiến hành một cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và đã giành được độc lập cho Việt Nam từ tay thực dân Pháp, phát xít Nhật là điều không thể chối bỏ. Nếu nói đây là sự lựa chọn sai lầm thì đó là sự phủ nhận lịch sử và là điều không đúng đắn Vào thời điểm đó thì ông Hồ Chí Minh không còn các lựa chọn nào khác, một khi chủ thuyết ấy đang là trào lưu. Sự thất bại của các ông Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh trong giai đoạn đó là những bằng chứng...”. Như vậy, chính blogger Kami - blogger không có thiện cảm với chế độ cộng sản - cũng phải công nhận sự đúng đắn trong lựa chọn con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh mà Lê Nguyên đã phải trích dẫn. Đó lại thêm cái vả nữa dành cho Lê Nguyên. Phen này, chắc chắn Lê Nguyên “lợi thì có lợi nhưng răng không còn” rồi!

Oct 18, 2015

THẤT BẠI LÀ ĐIỀU TẤT YẾU

          TRE VIỆT - “Trước quốc nạn, chúng ta phải làm gì, và làm thế nào?” là tên bài viết của Bùi Tín trên blog của ông ta, lại được mõ làng - VOA tiếng Việt - đăng ngày 18/10/2015. Đọc bài viết thấy rõ tâm địa đen tối của Bùi Tín (kẻ đảo tẩu đã mấy chục năm rồi, nay đã gần 90 tuổi) như con rắn độc.
          Cuối bài viết này, Bùi Tín “nhắn nhủ”: “Rất mong những suy tư, góp ý của một cựu đảng viên cộng sản, nay là nhà báo tự do sắp tròn 90 tuổi, sẽ là chút cống hiến nhỏ bé cho cuộc cách mạng dân chủ đang độ chín tới hoàn toàn”. Đọc lời lẽ trên thấy ám ảnh nỗi thất vọng của kẻ “gần đất xa trời”. Hãy xem “cống hiến nhỏ bé” của kẻ này như thế nào?
          Kẻ sắp chết này “cống hiến” trên 4 nội dung: “I- Chúng ta làm gì?  II- Chúng ta làm cuộc cách mạng ấy như thế nào? III - Những ai tham gia cuộc cách mạng này? IV - Thời cơ đã đến?”. Nhưng đọc xem ra chẳng có gì gọi là “cống hiến” cả, chỉ là sự ăn cắp, cóp nhặt của người khác, nhằm kiếm ít bơ thừa, sữa cặn sống những ngày tháng cuối đời nơi đất khách quê người. Thật tội nghiệp cho ông già Bùi Tín.
          Bùi Tín nhai lại Trần Đĩnh trong cuốn Đèn Cù, khi Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân đánh thực dân, đế quốc giành độc lập dân tộc thì nói là “tốt đen” cho Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc thì chỉ là cách diễn đạt khác với Trần Đĩnh mà thôi. Ai cũng biết trong cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc ta, thì chẳng những nhân dân Việt Nam mà nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới đều có chung kẻ thù là thực dân, đế quốc; đặc biệt là nhân dân các nước XHCN, tiêu biểu là nhân dân Liên Xô, Trung Quốc. Ấy thế mà, hết Trần Đĩnh, nay lại Bùi Tín cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là “Đèn Cù”, “tốt đen” của Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc. Bọn họ cố tình có mắt như mù, có tai như điếc không thấy rõ điều hiển nhiên: kẻ thù của bạn cũng là kẻ thù của ta, bạn của bạn cũng là bạn của ta, nên cứ nói xiên xỏ mà lại tự nhận là “cống hiến”. Cống hiến của họ là thế đấy!
          Bùi Tín lại nhai lại bài viết “Năm cùm một gông” mới đây của ông ta cũng trên mõ làng - VOA. Mà không chỉ ông ta, có một số kẻ khác cũng ra sức kêu gào chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã hết thời, CNXH mơ hồ, phê phán kinh tế quốc doanh, thì cũng chẳng qua ông ta tham gia dàn đồng ca lạc điệu mà thôi. Xin thưa, tư tưởng của C. Mác vẫn tỏa sáng trong thế kỷ XXI là nhận định của nhiều học giả, chính khách trên thế giới. Các tác phẩm của C. Mác được nhà xuất bản ở Đức giữ bản quyền vẫn tái bản nhiều lần nhằm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu của các nhà kinh tế tư sản. Hiện nay, mặc dù số nước đi theo con đường XHCN có ít hơn trước, nhưng vẫn chiếm 1/5 dân số thế giới. Và dù ít vẫn là chân lý. Lịch sử đã chứng minh cả giáo hội và nhận thức của con người trước đó đã thua nhận thức của một nhà khoa học khi chứng minh: Trái đất không đứng yên, mà nó tự quay quanh mặt trời. Sau đó, người ta mới thấy rõ tư duy vượt trước thời đại của nhà khoa học thiên tài và phải ngả mũ trước sự thiên tài này. Còn với kinh tế nhà nước mà ông gọi là quốc doanh (tuy không hoàn toàn đồng nhất), như ông đã biết, bất kỳ nước nào cũng phải dựa trên tiềm lực kinh tế nhất định, phải có cơ sở kinh tế để nhà nước thực hiện chức năng của mình. Với nhà nước XHCN phải có kinh tế nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện chính sách an sinh xã hội. Nhờ có kinh tế nhà nước mà Việt Nam thực hiện xóa đói giảm nghèo trở thành “điểm sáng”, “hình mẫu” trong thực hiện Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, và mong muốn Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm. Ông chuyên theo dõi tình hình đất nước, nhưng chỉ để ý các tin phục vụ tâm địa đen tối, làm nọc độc của con rắn, mà cố tình nhắm mắt làm ngơ trước đánh giá của Hội nghị phát triển bền vững của Liên hợp quốc vừa mới họp ở Hoa Kỳ hay sao?
Ông lại cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam “lừa dân” nói đổi mới, nhưng “đổi mà không mới”. Ông già Bùi Tín ơi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã công khai tuyên bố là đổi mới, nhưng không đổi màu. Cái ông đòi hỏi là phải đổi màu, muốn Việt Nam xa rời con đường phát triển XHCN thì chỉ có nằm mơ giữa ban ngày. Trong quá trình đổi mới xây dựng đất nước vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng Cộng sản Việt Nam phải lãnh đạo giữ vững định hướng XHCN. Điều đó đã thể hiện rõ, công khai trong các văn kiện của Đảng, ông nói “mỵ dân” là sao?
Con rắn độc Bùi Tín, cổ súy cho cách mạng màu ở Việt Nam. Ông ta cho rằng: “Ngày nay, nhờ phương tiện truyền thông bén nhạy, Internet, điện thoại cầm tay, Facebook để tổ chức điều hành các cuộc xuống đường nhanh nhạy, chặt chẽ”. Đây là cách mà các thế lực thù địch đã tận dụng lật đổ chính quyền của một số nước trên thế giới, ai cũng biết mà lão già này tự nhận là mình “cống hiến” (!). “Cống hiến” của ông ta là nhằm thay đổi chế độ XHCN ở Việt Nam, đòi đa nguyên, đa đảng, đòi hiến pháp khác, quốc hội khác. Đúng là rắn độc. Nhưng ông già gần đất xa trời thì làm được gì chứ? Hơn nữa, nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào con đường Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Đành rằng, trong quá trình dựng xây đất nước, ở chỗ này chỗ khác, lúc này lúc khác trong đội ngũ của Đảng vẫn còn một bộ phận suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Số cán bộ, đảng viên này không thực sự vì dân làm hoen ố hình ảnh của Đảng mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng đã chỉ ra. Một Đảng giấu diếm khuyết điểm của mình là một đảng yếu, đảng có gan chỉ ra khuyết điểm của mình là một đảng mạnh, như Hồ Chí Minh đã nói. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhìn thấy, chỉ rõ khuyết điểm của mình và quyết tâm khắc phục, nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới, thì đó là một đảng mạnh. Vậy nên, “cống hiến” của Bùi Tín thất bại là điều tất yếu./.

Oct 17, 2015

PHÚC TRÌNH CỦA BỘ NGOẠI GIAO HOA KỲ VỀ TỰ DO TÔN GIÁO LẠI BỊ SAI LỆCH

TRE VIỆT - “Đáng tiếc Báo cáo tự do Tôn giáo quốc tế 2014 của Hoa Kỳ, mặc dù đã ghi nhận những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực này, vẫn tiếp tục đưa ra một số đánh giá không khách quan, trích dẫn những thông tin sai lệch về Việt Nam”. Đó là khẳng định, của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình, tại cuộc họp báo thường kỳ ngày 15/10 vừa qua, phản đối Phúc trình hằng năm về tự do tôn giáo thế giới, của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố ngày 14/10/2015.
Điều 24, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân Việt Nam được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp quy khác. Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo có hiệu lực từ 15/11/2004, đã thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước Việt Nam, bảo đảm cho công dân thực hiện quyền về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ngày 01/3/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định 22/2005/NĐ-CP để hướng dẫn một số điều trong Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo. Trên cơ sở đánh giá thực tiễn hoạt động tôn giáo tại Việt Nam, tháng 11/2012, Việt Nam đã ban hành Nghị định 92/2012/NĐ-CP quy định chi tiết về biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo với nhiều điểm mới phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sinh hoạt tôn giáo của người dân; trong đó, có quy định điều kiện và thời gian để một hoạt động tôn giáo được cấp có thẩm quyền công nhận là tổ chức tôn giáo. Theo đó:
Về thời gian, sau 03 năm kể từ ngày được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo, tổ chức có hoạt động tôn giáo liên tục, không vi phạm các quy định của Điều 8, Nghị định 92/2012/NĐ-CP, ngày 08/11/2012 của Chính phủ và đáp ứng các điều kiện:
- Là tổ chức của những người có cùng tín ngưỡng, có giáo lý, giáo luật, lễ nghi không trái với thuần phong, mỹ tục, lợi ích của dân tộc;
- Có hiến chương, điều lệ thể hiện tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và không trái với quy định của pháp luật;
- Có đăng ký hoạt động tôn giáo và hoạt động tôn giáo ổn định;
- Có trụ sở, tổ chức và người đại diện hợp pháp;
- Có tên gọi không trùng với tên gọi của tổ chức tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận thì được quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo.
Về thẩm quyền công nhận và thời hạn trả lời:
Khoản 3, Điều 8, Nghị định 92 quy định:
- Trong thời hạn 45 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Thủ tướng Chính phủ xét công nhận tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; trường hợp không công nhận phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
- Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xét công nhận tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động chủ yếu ở một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Chính phủ Việt Nam đã quy định rõ ràng như vậy, tín đồ các tôn giáo đã biết và hiểu rõ, muốn được cấp có thẩm quyền công nhận là tổ chức tôn giáo, thì phải đăng ký để được hoạt động theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Không đăng ký, hoặc đăng ký nhưng không đủ điều kiện trên thì không được công nhận là tổ chức tôn giáo thì không hoạt động như tổ chức tôn giáo được. Bởi lẽ, Việt Nam cũng như các quốc gia có chủ quyền khác, mọi hoạt động của tổ chức, cá nhân, trong đó có hoạt động tôn giáo đều phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Thế mà, Báo cáo tự do Tôn giáo quốc tế 2014 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại cho rằng, nhà cầm quyền Việt Nam tiếp tục giới hạn hoạt động của các tổ chức tôn giáo không đăng ký (!).
Khi được hỏi: Tại sao các tổ chức này không đăng ký hoạt động với nhà nước để được công nhận và sinh hoạt đạo dễ dàng hơn? Một số hội nhóm tôn giáo nói “thực hành tín ngưỡng là quyền căn bản, công dân có quyền sinh hoạt tôn giáo độc lập với nhà nước, không phải xin - cho”. Điều đó cho thấy, rõ ràng họ không muốn đăng ký vì muốn sống ngoài pháp luật, bất chấp luật pháp mà không nơi nào trên thế giới có được. Đó là sự đòi hỏi phi lý, không chấp nhận được. Đây chỉ là số ít, không phản ánh đúng bức tranh tôn giáo Việt Nam hiện nay, với 95% dân số có đời sống tín ngưỡng. Hằng năm, Việt Nam có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia và địa phương được tổ chức. Tín đồ tôn giáo hoàn toàn tự do trong việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo, bày tỏ và thực hành đức tin tôn giáo của mình. Chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo được tự do trong việc thực hành các hoạt động tôn giáo theo giáo luật. Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc được thực hiện theo quy định của giáo hội. Các tổ chức tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân trong những năm qua đều có sự phát triển về số lượng cơ sở giáo hội, về tín đồ, chức sắc nhà tu hành, về việc xây dựng mới hoặc tu bổ các cơ sở thờ tự, bảo đảm kinh sách, các hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ và giáo lý, giáo luật. Các chức sắc, nhà tu hành được tham gia học tập, đào tạo ở trong nước và nước ngoài hoặc tham gia các sinh hoạt tôn giáo ở nước ngoài. Nhiều tổ chức tôn giáo nước ngoài đã vào giao lưu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam. Điển hình là, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc 2008 và 2014 tại Việt Nam.
Việc in kinh sách và xuất bản các ấn phẩm khác liên quan đến tôn giáo được duy trì thường xuyên, bảo đảm phục vụ yêu cầu hoạt động tôn giáo tại Việt Nam. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã có báo, tạp chí, bản tin, như: Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Báo Giác ngộ của Phật giáo; Tập san Hiệp thông, Báo Người Công giáo Việt Nam, Báo Công giáo và Dân tộc của Công giáo; Tạp văn Hương sen của Phật giáo Hòa Hảo; Bản tin Mục vụ và Bản tin Thông công của Tin lành,… đã nói lên bức tranh phong phú, sinh động của tôn giáo Việt Nam. Đồng thời, bác bỏ báo cáo sai lệch về tình hình tôn giáo Việt Nam của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ./. 

Oct 11, 2015

ĐỪNG ĐÁNH TRÁO KHÁI NIỆM

Tre Việt - Ngày 08/10/2015, trên trang Ba Sàm có bài: “Đại hội Đảng XII: Sao phải chống “diễn biến hòa bình”? của Nguyễn Văn Do đã cho rằng: “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH là điều vô cùng tốt đẹp! Vậy mà trong Dự thảo báo cáo Đại hội Đảng XII lại chống diễn biến hòa bình”. Nguyễn Văn Do còn viết tiếp: “Sử dụng giai cấp đấu tranh để giành chính quyền thì bất quá trở thành giai cấp thống trị chứ làm sao mang tới công bằng, hạnh phúc cho mọi người… Ở Sing, Thái Lan, Nhật, Mỹ, Âu châu,… có nước nào phải ra sức chống diễn biến hòa bình đâu. Khi có suy thoái về kinh tế, suy thoái về chính trị,… người ta lúc nào cũng chờ mong diễn biến, nhất là diễn biến hòa bình để thoát khỏi bế tắt, đâu có ai ngu đến nỗi chống lại điều tốt đẹp ấy,…”. Viết vậy, là ông ta đã đánh tráo khái niệm. 
          Cần thấy rằng: “Diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nhằm xóa bỏ CNXH và phong trào độc lập dân tộc. Chiến lược “Diễn biến hòa bình” được thực hiện thông qua phương thức tổng hợp, bằng các biện pháp phi quân sự là chủ yếu, thẩm thấu dần từng bước; tạo nên các nhân tố, lực lượng đối lập ngay trong lòng các nước XHCN và dân tộc độc lập để chống phá, tiến tới làm chệch hướng và lật đổ chế độ, giành thắng lợi cho chủ nghĩa tư bản mà không cần chiến tranh.
“Diễn biến hòa bình” có đặc trưng cơ bản sau:
          - Về mục đích: xóa bỏ CNXH trên quy mô toàn cầu, chống phá phong trào độc lập dân tộc, thiết lập trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo, chi phối.
          - Về phương thức: Với phương châm, “mềm, ngầm, sâu, trực tiếp, toàn diện”; tiến hành chống phá trên tất cả các mặt, thẩm thấu từ bên ngoài vào, đồng thời làm suy yếu và diễn biến từ bên trong.
          - Về lực lượng tiến hành: Bên trong nội bộ là chính kết hợp với xâm nhập, hỗ trợ từ bên ngoài thông qua các hoạt động phi quân sự.
          - Về không gian, thời gian: Mang tính toàn cầu, lâu dài.
          - Về thủ đoạn chủ yếu: Dùng biện pháp tổng hợp trên các mặt (chính trị, tư tưởng, văn hóa, kinh tế, an ninh, đối ngoại, quân sự...) lấy phi quân sự là chính, kết hợp răn đe can thiệp quân sự. Đồng thời, triệt để khai thác khoét sâu những sai lầm, yếu kém trong nội bộ để thúc đẩy tự diễn biến từ bên trong.
          Thực tiễn cho thấy, để lật đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước ở Đông Âu, chủ nghĩa đế quốc đã áp dụng các biện pháp, thủ đoạn sau:
          Chuyển hóa nội bộ, lợi dụng tôn giáo và khủng hoảng chính trị - xã hội, xóa bỏ chế độ XHCN thông qua bầu cử hợp hiến, như ở Ba Lan, Hung-ga-ri. Chuyển hóa bên trong, tạo khủng hoảng chính trị - xã hội, kết hợp kích động biểu tình, tạo áp lực của quần chúng đòi thay đổi chế độ, như ở Cộng hòa dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni. Chuyển hóa và chia rẽ bên trong và bên trên, vô hiệu hóa lực lượng vũ trang, tạo ra tình thế phản cách mạng để thay đổi chế độ, như ở Liên Xô. Lợi dụng vấn đề dân tộc để kích động ly khai làm suy yếu hoặc tan rã quốc gia thống nhất, như ở Nam Tư.
          Một dạng của “Diễn biến hòa bình” là cách mạng màu. Đây là cuộc cách mạng dưới sự chỉ đạo, hỗ trợ về mọi mặt của Mỹ và phương Tây, các thế lực chống đối khoét sâu sai lầm, yếu kém của chính quyền, khó khăn của đất nước (khủng hoảng kinh tế - xã hội, tham nhũng - quan liêu, phân hóa chia rẽ nội bộ...); lợi dụng dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để tiến công toàn diện về: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng,... kết hợp với răn đe và gây áp lực của nước ngoài; lực lượng đối lập tập trung đánh thẳng vào cơ quan lãnh đạo nhà nước bằng thủ đoạn: vu cáo, xuyên tạc, bôi nhọ chính phủ, chia rẽ quân đội, cảnh sát, viện kiểm sát với ban lãnh đạo cấp cao, vô hiệu hóa lực lượng vũ trang và cơ quan bảo vệ pháp luật; đẩy đất nước lún sâu vào khủng hoảng toàn diện về: chính trị - kinh tế - xã hội. Vào thời điểm bầu cử, lực lượng chính trị đối lập huy động một bộ phận lớn quần chúng bị kích động, mua chuộc, tiến hành bạo loạn chính trị (có thể có vũ trang); lật đổ, cướp chính quyền ở thủ đô và các thành phố lớn, dựng chính quyền bất hợp pháp, được phương Tây ủng hộ.
           Vì vậy ngày nay, chống “Diễn biến hòa bình” là cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc hết sức quyết liệt, phức tạp và lâu dài của các nước XHCN và dân tộc độc lập trên thế giới với chủ nghĩa đế quốc. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng đặt vấn đề phải chống “Diễn biến hòa bình” là vì thế./.

Oct 7, 2015

Tập Cận Bình nói càn xiên, ngang ngược!

Tre Việt - Nhân dịp chuyến thăm nước chính thức Hoa Kỳ vừa qua, tại cuộc họp báo chung với với Tổng thống Hoa Kỳ Brak Obama tại Vườn Hồng, ông Tập Cận Bình, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố càn xiên, ngang ngược, rằng: Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) và Trường Sa (Trung quốc gọi là Nam Sa) từ xa xưa đã là của Trung Quốc(!?)
Thực ra, những tuyên bố càn xiên, ngang theo kiểu bá quyền nước lớn của các quan chức nhà nước Trung Quốc kiểu như vậy, vốn chẳng lại gì đối người dân Việt Nam. Và những lời nói đã bị nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Trung Quốc cực lực lên án. Thời gian qua, Trung Quốc liên tục có những lời nói, hành động nhằm thể hiện quyết tâm bành trướng ra toàn Biển Đông, điển hình là nhà cầm quyền Trung Quốc đã ra tuyên bố về cái gọi là “đường lưỡi bò”, xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số bãi đá, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam); rồi đưa Giàn khoan Hải Dương-981 vào hoạt động thăm dò trái phép, hay cải tạo các bãi đá, bãi cạn trên vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam; liên tục có những hành động gây mất ổn định, an ninh, an toàn hàng hải trên Biển Đông, v.v. Những hành động ấy của Trung Quốc đã bị nhân dân Việt Nam, nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ và công lý trong khu vực và trên thế giới lên án mạnh mẽ.
Xin thưa ông Tập! Việt Nam là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nhân dân Việt Nam luôn yêu chuộng hòa bình, phấn đấu chung sống hòa bình, là bạn, là đối tác có trách nhiệm với các nước trong khu vực và trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi quốc gia, trong đó có Trung Quốc. Mọi lời nói, hành động làm tổn hại bầu không khí chung sống hòa bình, chủ quyền của các nước trong khu vực và trên thế giới đều bị Việt Nam lên án. Hơn nữa, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước “núi liền núi, sông liền sông”, vốn có mối quan hệ rất đặc biệt, “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, thường xuyên ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau lúc hoạn nạn, khó khăn. Ngày nay, Việt Nam và Trung Quốc đã có mối quan hệ hữu nghị, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện; nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc vốn có mối quan hệ chung sống hòa bình, hòa hợp, hòa hiếu, cùng nhau cần cù lao động dựng xây đất nước. Mối quan hệ này, đã tạo môi trường thuận lợi để nền kinh tế Việt Nam cũng như nền kinh tế của Trung Quốc từng bước phát triển vững chắc; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân hai nước. Trung Quốc được thế giới đánh giá là nền kinh tế lớn đứng thứ 2 thế giới, có tiềm lực quân sự mạnh trong khu vực, có tầm ảnh hưởng chính trị và kinh tế toàn cầu. Còn Việt Nam được đánh giá là nền kinh tế phát triển năng động, góp phần tích cực vào hòa bình và phát triển ở khu vực và trên thế giới
Trước phát biểu càn xiên, ngang ngược của ông Tập Cận Bình, Việt Nam có quyền đặt câu hỏi: Phải chăng, ông ta là lãnh đạo của Trung Quốc - nước lớn,… nên nói sao cho sướng mồm là được? Theo Tre Việt biết, người dân Việt Nam cũng như người dân Trung Quốc luôn tin tưởng vào lời phát biểu và hành động của lãnh đạo nước mình. Vì thế, phát biểu càn xiên, ngang ngược của ông cũng phải chăng là khuyến kích tư tưởng đại hán, bá quyền nước lớn vốn đã bị lịch sử lên án và đánh đổ?
 Thưa ông Tập! Người xưa nói rằng: “lời nói đọi máu”. Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Việt Nam có đầy đủ cơ sở lịch sử và pháp lý để chứng minh điều đó và đã chứng minh rõ trước thế giới. Nhân dân Việt Nam sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc. Tinh thần này luôn cuộn chảy trong máu, thịt của mỗi người con dân đất Việt trước đây cũng như hiện nay. Để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của mình phù hợp với luật pháp quốc tế, Việt Nam, là nước đã tham gia Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật Biển từ năm 1977, là một trong 130 quốc gia tán thành ký thông qua Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và cũng là một trong 119 quốc gia (trong đó có Trung Quốc) ký Công ước này. Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ra Nghị quyết phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; ngày 12/5/1997, Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ra công bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Quá trình xác lập chủ quyền biển, đảo của mình trong khu vực đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam cụ thể hóa bằng việc phê duyệt, ký kết song phương và đa phương giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam với các nước có liên quan về vấn đề chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển chồng lấn hoặc có tranh chấp như: Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia (07/7/1982); Thỏa thuận hợp tác khai thác chung Việt Nam - Malaixia (05/6/1992); Phân định biển Việt Nam - Thái Lan (09/8/1997); Hiệp định Phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam - Trung Quốc (25/12/2000); Nguyên tắc ứng xử ở Biển Đông giữa các nước ASEAN và Trung Quốc (DOC) ngày 04/11/2002; Hiệp định phân định thềm lục địa Việt Nam - Inđônêxia (26/6/2003), v.v.
Vậy việc tuyên bố càn xiên, ngang ngược của ông Tập Cận Bình liệu có đúng Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982? Hơn nữa, mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Trung Quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng nhân dân hai nước vun đắp, dựng xây đã được lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nhà nước Việt Nam - Trung Quốc ký thỏa thuận cùng nhau gìn giữ theo phương châm 16 chữ (do chính Trung Quốc khởi xướng) là: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” bị ông quẳng đi đâu rồi? Chẳng nhẽ, chữ ký của lãnh đạo Trung Quốc vào Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và những văn kiện, thỏa thuận nói trên là không có giá trị, chỉ để “cho vui” hay sao? Lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc cũng đã ký Tuyên bố Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển phù hợp với các quy định và thực tiễn pháp luật quốc tế và nhiều văn kiện mang tính pháp lý khác giữa hai nước cũng như trong khu vực về việc giải quyết những bất đồng trên biển,… ông Tập Cận Bình quên, hay cố tình quên vậy? Thực ra Ông không quên đâu, nhưng cái tư tưởng đại hán, bành trướng bá quyền, âm mưu độc chiếm Biển Đông, biến tuyên bố cái gọi là “Đường lưỡi bò trên biển” thành hiện thực đã bị cả thế giới lên án, ngăn chặn. Cho nên, Ông nói càn xiên, ngang ngược như thế nhằm mục đích tiếp tục thực hiện những âm mưu xâm chiếm lãnh thổ đất đai của người khác thành của Trung Quốc, mà Ông là đại diện lãnh đạo tối cao chưa làm được. Một người hay một đất nước như thế thì không chỉ khó kết bạn, mà còn có lẽ chẳng ai dám kết bạn!
Việt Nam đã và đang đấu tranh cả về chính trị, ngoại giao và pháp lý buộc Trung Quốc chấm dứt hành động ngang ngược của mình trên Biển Đông. Hành động của Việt Nam được các nước trên thế giới (trong đó có Mỹ, Pháp, Anh) các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới ủng hộ (trong đó có ASEAN). Việt Nam có đầy đủ các nguồn lực, biện pháp, trước hết là những biện pháp hòa bình để bảo vệ chủ quyền của đất nước.
Lời phát biểu càn xiên, ngang ngược của ông Tập Cận Bình đã và sẽ tiếp tục bị nhân dân Việt Nam, nhân dân Trung Quốc và nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới lên án, bác bỏ./. 

Oct 1, 2015

Bùi Tín lại sủa

Tre Việt - Về bài viết: “Gỡ bỏ năm cùm và một xích” của Bùi Tín trên VOA Tiếng Việt, ngày 28/9/2015, bạn đọc Minh Quân đồng quan điểm với Tre Việt và giử đến bài viết: “Bùi Tín lại sủa”, xin giới thiệu cùng bạn đọc.

Bùi Tín lại sủa!

                                         Minh Quân

Bùi Tín, sinh năm 1927, là con của cố Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa(cụ Bùi Bằng Đoàn). Ông ta được Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện học tập, phấn đấu và từng bước trưởng thành với quân hàm đại tá, nhà báo, Phó Tổng biên tập Báo Nhân Dân (Việt Nam). Năm 1990, khi được cấp trên cử sang dự hội nghị hằng năm của báo Nhân đạo (thuộc Đảng Cộng sản Pháp), Bùi Tín đã “trở cờ”, trốn ở lại để “ăn nhờ, ở đậu” tại Pháp và tự cho mình là “nhà bất đồng chính kiến”, “nhà đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền”. Với cái mác nhà báo”, Bùi Tín cung cúc phục vụ cho lợi ích của các thế lực chống cộng - ông chủ đích thực của ông ta. Đặc biệt, Bùi Tín thường xuyên “lập công” với các ông chủ bằng cách ra sức xuyên tạc lịch sử, nói xấu Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Bộ mặt bẩn thỉu, có tâm địa xấu xa, mưu toan “cõng rắn, cắn gà nhà”, “rước voi dày mả tổ”, phản bội lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam của Bùi Tín đã được nhân dân Việt Nam, những người yêu chuộng công lý, hòa bình trên thế giới nhận rõ và lên án.
Ngày 28/9/2015, trên VOA (Tiếng Việt), lợi dụng Đảng Cộng sản Việt Nam lấy ý kiến đóng góp của nhân dân trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài vào bản Dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, trình Đại hội XI của Đảng, Bùi Tín lại sủa lên ông ổng! Ông ta lu loa lên rằng, việc Văn phòng Trung ương và Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam hướng dẫn về nội dung, phương pháp, hình thức góp ý của các tầng lớp nhân dân vào bản Dự thảo nói trên là chỉ nhằm “bịt mồm dân khi dân chưa kịp phát biểu” và “né tránh việc toàn Đảng và toàn dân góp ý về những vấn đề cơ bản mà rất nhiều trí thức, đảng viên cao cấp đang đòi thay đổi” những cái gọi là “năm cùm và một xích” và Việt Nam muốn tiến bộ, phát triểnnhất thiết phải “gỡ bỏ” những thứ đó!
Việc Đảng Cộng sản Việt Nam công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân đóng góp ý kiến vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng là chính đáng, nhằm để “ý Đảng, lòng dân” luôn hòa quyện, vì sự phát triển bền vững của dân tộc. Còn cái gọi là “năm cùm và một xích” như Bùi Tín sủa lên ông ổng, không có gì mới. Vẫn là “bổn cũ soạn lại”, mang giọng điệu của những kẻ trở cờ, núp danh “nhà yêu nước, mang cái mác “nhà trí thức”,… vẫnluôn ra rả chống phá sự phát triển bền vững của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.Chắc dạo này “đói”, nên Bùi Tín lại phải ông ổng lên để ông chủ thí cho tý bơ thừa, sữa cặn để duy trì kiếp sống vong nô, hèn hạ mà thôi!
V cái gọi là sai lầm “lựa chọn chủ nghĩa Mác – Lê-nin”, như Bùi Tín đã nói, cả về lý luận và thực tiễn vận động của lịch sử dân tộc Việt Nam đã khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp đúng đắn giữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời có cơ sở chính trị, xã hội vững chắc, từ đòi hỏi thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Vốn có “44 năm ở trong Đảng Cộng sản”, là “Đại tá, nhà báo”, nên chắc Bùi Tín được nghiên cứu kỹ, nắm chắc nguồn gốc ra đời, mục tiêu, lý tưởng, cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng. Vì thế, ông ta thấy rõ, từ năm 1930 - 1975, đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phất cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn, lãnh đạo nhân dân phát huy chủ nghĩa yêu nước chân chính, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, “đánh Pháp, đuổi Nhật”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, đóng góp quý báu vào phong trào giải phóng dân tộc, vì hòa bình, tiến bộ trên thế giới. Việt Nam trở thành biểu tượng của nhân loại tiến bộ trong công cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức, bất công do chủ nghĩa thực dân cũ và mới gây ra. Từ năm 1975 đến nay,kiên trì, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân từng bước hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước Việt Nam “ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Những thành tựu về xóa đói giảm nghèo, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,… đã được khẳng định trên thực tế.
Hiện nay, thế và lực mới của Việt Nam trên trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Đất nước, con người Việt Nam đều đổi mới. 
Việt Nam đã từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi những cuộc chiến tranh xâm lược và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thực dân, đế quốc, đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo, trở thành nước phát triển trung bình, với tốc độ tăng trưởng GDP gần 7%/năm (giai đoạn 1986-2015), thu nhập bình quân 2.200 đôla/người/năm (năm 2015); có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 54 dân tộc anh em luôn đoàn kết, giúp nhau cùng tiến bộ, chung sức dựng xây và bảo vệ Tổ quốc. 
Việt Nam đã có quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng phát triển với trên 180 quốc gia, vùng lãnh thổ; là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với các nước là ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc; là thành viên có uy tín và trách nhiệm với nhiều tổ chức lớn trong khu vực và trên thế giới, v.v. Việt Nam là điểm sáng trong thu hút các nguồn vốn ODA, FDI từ các thể chế kinh tế, tài chính lớn của thế giới; luôn đồng hành cùng các dân tộc, quốc gia để bảo vệ hòa bình, xây dựng môi trường quốc tế hòa bình, ổn định và cùng nhau phát triển.
Như vậy, việc Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là đảm bảo cho Đảng có cương lĩnh đúng đắn, lãnh đạo nhân dân xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh là hoàn toàn phù hợp. Và vì tin tưởng vào nền tảng tư tưởng, cương lĩnh của Đảng, nên nhân dân Việt Nam đã trao quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội cho Đảng. 
Đây là sự thật lịch sử không thể bác bỏ!
Chỉ có những kẻ bị mù, hay thiểu năng trí tuệ như Bùi Tín mới không biết!