Apr 27, 2014

Liệu có phải là "chân lý"?

Tre Việt - Kể từ sau 1975, ngày 30 tháng 4 hằng năm thường để lại những cảm xúc rất khác nhau trong những người con đất Việt. Đa phần là mừng vui, trong đó có không ít người đã từng đứng ở “phía bên kia của cách mạng”. Mừng vui, vì đó là ngày đất nước và dân tộc được thống nhất, được giải phóng khỏi ách thống trị, xâm lược của thực dân, đế quốc; và từ đây, đất nước không còn chiến tranh. Cố giáo sư Trần Trung Ngọc, người từng phục vụ trong quân đội Sài Gòn, sau này định cư ở Mỹ, còn coi “Ngày 30 - 4 - 1975 không chỉ có nghĩa là ngày đất nước thống nhất, chủ quyền trở lại tay người Việt Nam, mà còn là ngày người dân Việt Nam, trừ những kẻ có tâm cảnh phi dân tộc hay tiếp tục nuôi dưỡng thù hận, bất kể thuộc chính kiến hay phe phái nào, đều có thể hãnh diện ngẩng mặt nhìn thẳng vào mắt kẻ đối thoại, bất kể họ thuộc lớp người nào, ở địa vị nào, thuộc quốc gia nào”.  Theo đó, ngày 30 tháng 4 hằng năm được xem là một ngày lễ trọng của đất nước. Nhưng cũng có những người vẫn hậm hực, nuối tiếc (nhất là những người đã từng có nhiều nợ máu với nhân dân Việt Nam, từng được hưởng lợi nhiều từ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do người Mỹ - chính xác hơn là đế quốc Mỹ - tiến hành), không chịu chấp nhận một thực tế lịch sử mang tính tất yếu: sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn (trong thực tế, đây là một thực thể tay sai, là kẻ thừa hành của chính quyền Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam), sự tháo chạy của Mỹ - người nuôi dưỡng chính quyền Sài Gòn, nên họ tự gọi đó là ngày “quốc hận”, và xem cuộc chiến tranh ở Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là cuộc chiến “huynh đệ tương tàn”, nên ngày 30 tháng 4 theo họ không phải là ngày “giải phóng”. Âu có lẽ đó cũng là thường tình, bởi độ lùi gần 40 năm của lịch sử cũng chưa hẳn đã là dài, nhất là đối với những người còn mang nặng đầu óc hận thù, còn nuôi hy vọng hão huyền về một sự trở lại của họ với lá cờ vàng 3 sọc (mà từ lâu dân ta vẫn gọi là cờ “3 que”). Thế nhưng, điều lạ là cái tay Tín họ Bùi – người còn muốn ghi danh vào thời khắc cuối của cuộc chiến, khi tự tô vẽ bản thân trong tác phẩm “Hoa xuyên tuyết” của mình – lại đi khóc thay cho cái thây ma Việt Nam Cộng hòa trong bài viết mới của y “Chân lý tháng tư” được VOA đăng tải hôm 21 tháng 4 vừa qua.
          Mượn lời của tay sinh viên Lê Vũ Cát Đằng nào đó, trong bài viết của mình, Bùi Tín xem luận điểm “Hoa Kỳ không phải là đế quốc,… Hành động của Hoa Kỳ ở Việt Nam do đó không thể nào gọi là xâm lược”, mà người sinh viên trẻ tuổi nọ đưa ra, là một “chân lý”!!. Thêm nữa, mượn cách nói của Huy Đức - tác giả cuốn “Bên thắng cuộc”, Bùi Tín còn xem ngày 30 tháng 4 hằng năm là “ngày vui của những người thắng cuộc, ngày buồn của những người thua cuộc”, với hàm ý coi ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày kết thúc cuộc nội chiến của những người Việt Nam với nhau. Thật là một sự xuyên tạc lịch sử trắng trợn và sự biện hộ cho kẻ xâm lược một cách bỉ ổi. Thử hỏi, Bùi Tín dựa vào cơ sở nào để coi kết luận của người sinh viên trẻ ít học kia là “chân lý”, hay đó chỉ là cách Tín nói liều, nói bừa để kiếm mấy đồng tiền bố thí của những kẻ “có tâm tưởng phi dân tộc”, như nhận định của cố giáo sư Trần Trung Ngọc.
          Có thể khẳng định ngay rằng, kết luận nói trên của người sinh viên thiếu kiến thức về lịch sử, và sự tán thưởng vô lối, có động cơ xấu của tay Bội Tín không phải là “chân lý”, mà đó là cái “lý giả” hay là “giả lý”. Chân lý chỉ có một, thực tiễn lịch sử đã diễn ra không thể xuyên tạc. Độ lùi của chiến tranh đã mấy chục năm, nhiều tài liệu mật đã được giải mã, nhiều nhân chứng lịch sử vẫn còn và đã lên tiếng về sự thật của cuộc chiến giai đoạn 1954 – 1975 ở Việt Nam, trong đó có nhiều học giả phương Tây và chính các chính trị gia từng phục vụ trong chính quyền Sài Gòn.
Để khách quan, xin hãy vào Wikipedia để xem mục từ “Chiến tranh Việt Nam”, trong đó, họ giải thích rất rõ rằng: “Không công nhận kết quả Hiệp định Geneva và thấy trước kết quả sẽ thiên về phe Cộng sản nếu tổng tuyển cử được tiến hành, Mỹ đã bắt đầu hoạt động tại Việt Nam, chuẩn bị cho sự can thiệp sâu rộng hơn”. Với ý đồ đó, trước tình huống thế và lực của chính quyền Sài Gòn (do Mỹ dựng lên) suy yếu đến mức không thể cứu vãn, Mỹ đã chính thức nhảy vào cuộc từ những năm 60 của thế kỷ XX, lần lượt áp dụng các chiến lược: Chiến tranh đặc biệt, Chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh với trên 8 triệu tấn bom đạn, gần 80 triệu lít chất độc hóa học đã sử dụng, cùng những loại vũ khí tối tân nhất (trừ bom hạt nhân) và một lực lượng lớn quân viễn chinh, gồm quân Mỹ và một số đồng minh (chỉ riêng số quân Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam, có lúc đã lên đến hơn nửa triệu người), để khuất phục nhân dân Việt Nam. Về chi phí cho cuộc chiến, theo thống kê chưa đầy đủ, Mỹ đã chi trực tiếp cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam lên tới 676 tỷ USD (nếu tính cả chi phí gián tiếp thì lên tới 920 tỷ USD), so với 341 tỷ USD trong Chiến tranh thế giới thứ hai và 54 tỷ USD trong chiến tranh Triều Tiên. Từ các cứ liệu trên có thể khẳng định rằng, đây là cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất trong lịch sử 200 năm của nước Mỹ chống Việt Nam. Do đó, không thể ngụy biện cho “hành động của Mỹ ở Việt Nam không phải là hành động xâm lược”. Ngay trong cuốn sách Chiến tranh Việt Nam và văn hóa Mỹ (xuất bản tại Mỹ năm 1991), tác giả J.C.Rowe và R.Berg đã chỉ ra bản chất cuộc chiến tranh ở Việt Nam: “Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân loại trên khắp Đông Dương”. Học giả Giôn- Pra- đốt (thuộc cục Lưu trữ an ninh quốc gia và Đại học G.Oa-sinh-tơn) cũng cho ra mắt cuốn Lịch sử một cuộc chiến không thể thắng 1945 - 1975 vào năm 2009 ở Mỹ; trong đó, học giả này thừa nhận: “cuộc chiến này, đối với người Mỹ, là một sai lầm và không thể chiến thắng”. Chính ông Ngoại trưởng Hoa Kỳ H. Kít-xinh-giơ trong một cuộc họp báo ngay sau khi chế độ Sài Gòn sụp đổ đã thừa nhận: “Chúng ta đã sai lầm khi biến Việt Nam thành một nơi thí nghiệm chính sách của chúng ta chứ không phải đối với chính sách của người Việt Nam”. Trong một bài viết, đăng ngày 29 tháng 9 năm 2011, trên báo mạng Treonline của người Việt ở hải ngoại, cố giáo sư Trần Chung Ngọc đã viết: “Với những hiểu biết mới về cuộc chiến thì chúng ta đã rõ, cuộc chiến trước 1954 là cuộc chiến chống xâm lăng của thực dân Pháp toan tính tái lập nền đô hộ trên đầu dân Việt Nam, với sự hỗ trợ về quân cụ, vũ khí rất đáng kể của Mỹ… Còn cuộc chiến hậu Geneva là cuộc chiến chống xâm lăng của Mỹ, Mỹ xâm lăng vì cái thuyết Domino sai lầm… Đây là kết luận của các học giả Tây phương, xét theo những sự kiện lịch sử chứ không xét theo cảm tính phe phái”. Còn trong bài “Vài suy tư về ngày 30 tháng tư” (sachhiem.net/TCN/TCNs/TCNts065.php ngày 18 tháng 4 năm 2013), cố giáo sư  đã vạch trần bộ mặt tay sai của chính quyền Sài Gòn khi ông viết: “Muốn hiểu tại sao miền Nam lại có một kết cục như vậy, chúng ta cần nhắc lại vài nét về các chế độ ở miền Nam. Ai cũng biết là chế độ Ngô Đình Diệm cũng như miền Nam là do Mỹ dựng lên, không phải do người dân miền Nam bầu chọn hay muốn như vậy… Còn về những chế độ quân phiệt của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa thì chúng ta hãy đọc vài lời thú nhận của các vị lãnh đạo cao cấp nhất ở miền Nam, như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: Mỹ còn viện trợ, thì chúng tôi còn chống cộng. Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập; Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ: “Ông” Mỹ luôn luôn đứng ra trước sân khấu, làm “kép nhất”. Vì vậy ai cũng cho rằng thực chất đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê; Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa Cao Văn Viên: Chúng ta không có trách nhiệm chiến tranh (!) Trách nhiệm chiến đấu là của người Mỹ. Chính sách đó do Mỹ đề ra, chúng ta chỉ theo họ mà thôi”. Chỉ cần dẫn ra một vài tư liệu như thế đã là quá đủ để khẳng định rằng, kết luận “về hành động của Mỹ ở Việt Nam không phải là hành động xâm lược” chỉ là một kết luận láo toét, là sự biện hộ lố bịch cho những hành động xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ ở Việt Nam trong thế kỷ XX, chứ đâu phải là một “chân lý” mà Bùi Tín vào hùa. Thực tiễn khách quan của lịch sử đã cho thấy: cuộc chiến từ năm 1954 đến năm 1975 là cuộc kháng chiến của toàn dân tộc Việt Nam chống lại sự xâm lược của Mỹ. Do đó, nếu có bên thắng cuộc và bên thua cuộc ở đây, thì cần phải nói rằng: toàn thể dân tộc Việt Nam là bên thắng cuộc và đế quốc Mỹ là bên thua cuộc, đúng như tuyên bố của Tướng Trần Văn Trà lúc tiếp nhận sự đầu hàng của Dương Văn Minh rằng: “Giữa chúng tôi và các anh, không có ai được, ai thua, chỉ có nhân dân Việt Nam là người chiến thắng”. Đó mới thực sự là chân lý.
Vào hùa với những kẻ nuôi dượng hận thù và có “tâm tưởng phi dân tộc”, Bùi Tín thực sự là một Trần Ích Tắc thời hiện đại, như cách gọi của nhiều người trong chính các nhóm “cờ vàng” ở hải ngoại thường sử dụng ./. 

Apr 7, 2014

Chỉ là "gắp lửa bỏ tay người"

         Tre Việt - Thứ bảy, ngày 05-4 vừa qua, BBC tiếng Việt đăng bài “Chính quyền nợ cha tôi một lời xin lỗi” đưa ý kiến của cô Đinh Phương Thảo, con gái đầu lòng của ông Đinh Đăng Định - người vừa qua đời hôm thứ sáu (04-4), sau một thời gian được đặc xá về nhà trị bệnh và ý kiến của Phạm Chí Dũng. Qua bài viết, thấy rõ sự suy diễn theo kiểu “Gắp lửa bỏ tay người” của cả người đưa ra ý kiến và người đưa tin.  

          1. Cô Đinh Phương Thảo cho rằng, “càng ngày khối u trong người càng lớn, nhưng chẳng được phát hiện ra, khi phát hiện ra rồi, thì khối u to đùng, lúc phát hiện ra khối u to, thì việc điều trị, họ cũng không chịu thả tự do cho bố tôi”. Theo Tre Việt được biết, ở Việt Nam, có nhiều trường hợp phát hiện ra bệnh ung thư đều ở giai đoạn cuối. Như vậy, không sớm phát hiện ra khối u của ông Đinh Đăng Định cũng không đáng ngạc nhiên. Cho nên, không vì thế mà suy diễn theo kiểu “Ngậm máu phun người”. Dẫu rằng, Thảo có nói: “Gia đình chưa dám khẳng định tại vì muốn cáo buộc ai thì mình phải cần có bằng chứng”. Song lại nói tiếp: “Nhưng bố tôi là một nhà giáo, bố tôi dạy hóa (học) nên bố tôi phát hiện ra được mùi hóa chất rất giỏi, thí dụ trong thức ăn, nước uống của bố tôi có những hóa chất lạ là bố tôi phát hiện ra liền”. Lại vẫn có ý ám chỉ, suy diễn “bụng ta ra bụng người”. Tre Việt có đọc bài viết của cha cô sau khi được đặc xá, không hề thấy ông Đinh Đăng Định viết rằng ông ngửi thấy mùi hóa chất lạ trong thức ăn, nước uống như cô suy diễn. Thế rồi, Thảo lại trách móc: “Họ vẫn cứ giam giữ bố tôi, thì thử hỏi, với điều kiện giam giữ trong tù như thế thì làm sao một người vừa trải qua cơn đại phẫu có thể hồi phục được?”. Ông cha ta có câu: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” Thảo ạ! Giá như cha cô không phạm tội “tuyên truyền chống Nhà nước” theo Điều 88 Bộ luật Hình sự để tòa phải xét xử tuyên phạt 6 năm tù vào năm 2013 thì đâu có chuyện như vậy. Ông Đinh Đăng Định - cha cô -  không nói, không viết như cô suy diễn, phải chăng cô quá thương tiếc cha mình nên nói vậy thôi.

          Cô Phương Thảo thừa nhận trong lễ tang của cha cô “gia đình chưa gặp sự cản trở nào của chính quyền”, nhưng vẫn lối suy diễn “tuy rằng có thể một số nhà hoạt động đến dự đám bị an ninh theo dõi”. Đúng là sự suy diễn hồ đồ, vô căn cứ, không đưa ra bằng chứng nào mà cố nói lấy được theo kiểu “Ăn ốc nói mò”.

          2. Cũng trong bài viết trên, BBC tiếng Việt còn đưa ý kiến của Phạm Chí Dũng rằng, chính quyền đã có “tính toán” khi thả ông Định về nhà trong tình trạng bệnh tật đã rất trầm trọng, được hiểu là ung thư dạ dày giai đoạn cuối. Và “họ cho lệnh đặc xá với ông Đinh Đăng Định, đó là một việc lấy lòng quốc tế, cho là nhà nước Việt Nam có nhân quyền”. Ở trên, cô Phương Thảo trách móc “cứ giam giữ” khi bệnh đã nặng. Ở đây, khi Nhà nước đặc xá cho ông Định thì Phạm Chí Dũng lại cho rằng “tính toán” để lấy “lòng quốc tế, cho là nhà nước Việt Nam có nhân quyền”. Vậy là sao? Kiểu gì họ cũng nói được.

          BBC dẫn lời ông Dũng: “việc tổ chức một đám tang không hoàn toàn quá tốn kém so với khả năng của Nhà nước, nhưng trách nhiệm và chi phí này, có thể đã được tính toán để “chuyển sang” cho các đương sự và người nhà của các đương sự bị qua đời”. Đúng là “Làm phúc phải tội”. Theo phong tục tập quán văn hóa Việt Nam, những người ốm đau không thể qua được, thường thì các bệnh viện đều trả về để khi người bệnh “nhắm mắt xuôi tay” được ở trong ngôi nhà mình, hết sức tránh “chết đường, chết chợ”. Vậy là, việc ông Định qua đời tại tư gia là phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam. Hơn nữa, khi ông bị bạo bệnh, ông được gần người thân để chăm sóc ông, an ủi ông và cũng là an nủi gia đình ông Định. Việc làm đầy nhân văn như thế mà Phạm Chí Dũng lại chuyển sang bài toán kinh tế, lộ rõ chân tướng của kẻ chỉ coi trọng vật chất, coi nhẹ tình cảm và văn hóa dân tộc. Những kẻ như vậy luôn bị xã hội ta từ trước đến nay phê phán. Thật là đã sấu xa mà không biết đường đậy lại. 

          Các ý kiến trên của Đinh Phương Thảo, Phạm Chí Dũng và BBC tiếng Việt đều có ý phê phán thực thi quyền con người ở Việt Nam. Nhưng xin thưa, trong Hội thảo thông báo kết quả Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR) chu kỳ II, diễn ra chiều 02-4 vừa qua tại Hà Nội, do Bộ Ngoại giao phối hợp với Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam tổ chức, bà P.Mê-ta (Pratibha Mehta), Điều phối viên thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam cũng như nhiều đại biểu tham dự Hội thảo đều có chung nhận định: Việt Nam có nhiều tiến bộ trong bảo đảm quyền con người. Điều đó một lần nữa chứng tỏ những suy diễn của Thảo, Dũng và BBC tiếng Việt chỉ là trò: “Gắp lửa bỏ tay người” mà thôi./. 

Apr 4, 2014

VĂN ĐOÀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM – LẤY TAY VẢ MIỆNG

         Tre Việt - 3/3/2014, nhà văn Nguyên Ngọc cùng 60 “nhân sĩ chấy thức” khác đã hùng hồn đăng tải tuyên bố vận động thành lập cái gọi là “Văn đoàn độc lập Việt Nam” (VĐĐLVN). Cổ súy rùm beng cho “sự kiện này” (chẳng nói thì thiên hạ cũng đoán được) là một số cá nhân, tổ chức, trang mạng có “truyền thống đi ngược”, a dua và chống phá. Tuy mới chỉ là giai đoạn “vận động” chứ chưa thực sự được “thành lập” nhưng chỉ cần đặt bản tuyên bố ấy cạnh cái Danh sách Ban vận động thành lập do Nguyên Ngọc cầm đầu đã “hé lộ” ngay rất nhiều mâu thuẫn, rất nhiều vấn đề mà nhờ đó lật tẩy phần nào bộ mặt thật không lấy gì làm hay ho của VĐĐLVN. Như thế há chẳng phải là VĐĐLVN  “lấy tay vả miệng” hay sao?!
1. Nguyên Ngọc cùng những kẻ “đồng hội đồng thuyền”, một cách rất chuyên nghiệp, đã vận động thành lập “hội này” bằng một tuyên ngôn thoạt nghe có vẻ “đao to búa lớn” với những mục đích chính đáng, cao cả tưởng như không chỉ Việt Nam mà bất cứ nền văn học của dân tộc nào trên thế giới cũng mong muốn, ấy là “góp phần tích cực xây dựng và phát triển một nền văn học Việt Nam đích thực, nhân bản, dân chủ, hiện đại, hội nhập với thế giới”, ấy là “có thể đóng vai trò tiền phong đúng như nó phải có trong sự nghiệp phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc mà lịch sử đang đòi hỏi”. Thế nhưng, cái mục đích “to đùng to đoàng” ấy lừa mị được ai khi mà soi vào bản Danh sách Ban vận động thành lập thì tòi ra vị trí thứ hai, nghĩa là chỉ sau vị trí thứ nhất (Trưởng ban Nguyên Ngọc), lại chính là Bùi Chát. Chắc thiên hạ không ai xa lạ gì, Bùi Chát – tác giả của “thơ dơ, thơ rác, thơ nghĩa địa”, người sáng lập Mở Miệng với sản phẩm là thứ “quái thai lai quái dị”, tục tĩu, bệnh hoạn, nổi loạn, phản động (đối tượng nghiên cứu trong “luận văn thạc sĩ” mới bị thu hồi vì tính chất phi chính trị, phản văn hóa, phản khoa học mà Tre Việt từng đề cập đến trong một bài viết khác),… Nhìn vào bản danh sách không xếp theo thứ tự A, B, C,… cũng chẳng xếp theo thứ tự tuổi đời từ thấp đến cao hay từ cao xuống thấp mà lại bắt đầu bằng cái tên của Trưởng ban rồi đến cái tên của Bùi Chát ngồi “nghễu nghện” trên khá nhiều bô lão “mũ cao áo dài” trong làng văn thì đoán rằng có hai tình huống: 1. “Bố đẻ” của “thơ dơ, thơ rác, thơ nghĩa địa” hẳn phải chiếm một ghế “tối quan trọng” trong VĐĐLVN, sản phẩm “quái thai lai quái dị” của anh ta chắc được VĐĐLVN đề cao!; 2. VĐĐLVN lợi dụng điều này để chứng minh cho bàn dân thiên hạ thấy hội của tôi là thế đấy, tham gia hội của tôi “quyền tự do sáng tác và công bố tác phẩm” của các bạn sẽ được khuyến khích, bảo đảm cho dù các vị có phóng uế ra phế thải của những đầu óc bệnh hoạn (Bùi Chát là tấm gương to đùng). Vì vậy, hãy thử hình dung xem trong một ngày đẹp giời nào đó, VĐĐLVN mang những thứ thơ tục tĩu, bệnh hoạn, nổi loạn của Mở Miệng bày lên đĩa và mời thiên hạ “xơi” thì không biết có “thức tỉnh lương tri và bồi đắp đạo đức xã hội” được tí nào như họ hùng hồn tuyên ngôn không, hay chỉ làm ô uế bầu khí quyển văn học nước nhà. Ấy thế mà họ còn cao giọng “văn hóa Việt Nam ngày càng suy thoái nghiêm trọng, lộ rõ nguy cơ đánh mất những giá trị nhân bản căn cốt nhất, uy hiếp đến cả sự tồn vong của dân tộc”. Thật đúng là “thùng rỗng kêu to”, “vừa ăn cắp, vừa la làng”, chi tiết “biết nói” (Bùi Chát đứng thứ hai trong Ban vận động thành lập) đã làm một việc mà Ban vận động thành lập không ngờ tới, ấy là “lột truồng” cái mặt nạ VĐĐLVN cho người ta biết bộ mặt thực chất của nó chỉ là nơi dung túng cho những phần tử “quái thai lai quái dị” mà thôi!
2. Trong Tuyên bố vận động thành lập, VĐĐLVN liệt kê ra ba nhiệm vụ cụ thể mà như Lâm Trực @ nhận xét thì: nhiệm vụ cao cả và đẹp long lanh nhưng chả có gì mới mẻ, vì những thứ đó đã được xác định trong Điều lệ Hội Nhà Văn Việt Nam theo Quyết định số 69, ngày 14/7/1005, thậm chí, Điều lệ Hội nhà văn Việt Nam còn cụ thể hơn nhiều. Vấn đề là “nói có đi đôi với làm”? Nếu lướt một loáng từ đầu đến cuối danh sách, 61 cái tên, chắc hẳn không ít người nhận ra rất nhiều người nằm trong danh sách ấy hiện vẫn là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, chưa kể có vị còn giữ chức vụ khá “to”. Vậy, tại sao họ lại phải thừa hơi vận động thành lập VĐĐLVN mà không tập trung dốc lòng dốc sức xây dựng Hội nghề nghiệp của mình phát triển và đoàn kết? Điều này cho thấy, nhiệm vụ lớn thứ nhất “Đoàn kết tương trợ giữa những người viết văn tiếng Việt trong và ngoài nước” mà VĐĐLVN đặt vị trí đầu tiên cơ hồ chỉ là “nói cho hoành tá tràng” vậy thôi chứ thực chất của việc vận động thành lập VĐĐLVN, nói như Lâm Trực @, là làm chính trị và đối lập với Hội nhà văn Việt Nam. Như vậy, há chẳng phải lấy tay vả miệng hay sao, miệng thì nói đến đoàn kết nhưng chính VĐĐLVN sẽ là minh chứng cho sự kéo bè kết cánh, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ văn nghệ sĩ. 

3. Chỉ ra thực trạng “văn học yếu kém” để rồi nêu lên nguyên nhân chủ quan lướt qua trong 2 dòng (nguyên nhân chủ quan trước tiên thuộc chính người cầm bút là sự thờ ơ đối với trách nhiệm xã hội, vô cảm trước thời cuộc, quan trọng hơn nữa là thiếu độc lập tư duy, từ đó mà tự hạn chế năng lực sáng tạo), nguyên nhân khách quan với dung lượng dài gấp 3 lần (một xã hội như chúng ta đang có, trong đó các quyền tự do cơ bản của con người thực tế bị vi phạm trầm trọng, đương nhiên đè nặng lên tâm lý sáng tạo của người cầm bút, làm mờ nhạt và tắt lụi các tài năng. Quyền tự do sáng tác và tự do công bố tác phẩm đang là đòi hỏi sống còn của từng nhà văn và của cả nền văn học. Không có những quyền tự do tối thiểu đó thì không thể có một nền văn học đàng hoàng. Một thể chế tổ chức đời sống văn học nặng tính quan liêu và bao cấp càng làm nặng nề thêm tình hình, đồng thời lại không tạo được mối liên kết lành mạnh giữa những người viết để nâng đỡ và thúc đẩy nhau trong công việc, hỗ trợ nhau trong khó khăn). Điều này bộc lộ nhận thức, nhãn quan “lệch lạc”, phiến diện của 61 thành viên Ban vận động, trong đó có không ít “lão làng” bởi văn học yếu kém mà đổ vấy cho thể chế, cho xã hội (ấy là chưa kể những gì họ liệt kê ra không phải là sự thật!), thì hẳn là buồn cười. Văn học yếu kém, nhà văn phải tự xem lại cái Tài, cái Tâm, cái Tầm của mình chứ! Hơn thế, cái danh của nhà văn là nằm ở tác phẩm. Giá mà họ dành thời gian tập trung để viết, để sáng tác chứ không phải để tụ tập, kết bè kết cánh làm những việc vô bổ, gây hại biết đâu lại có tác phẩm lớn cống hiến cho công cuộc “phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc”?! Trộm nghĩ như vậy nhưng nhìn vào Danh sách Ban vận động thì thấy ngay: Từ đầu đến cuối, từ trẻ đến già, từ người có danh tiếng đến kẻ vô danh tiểu tốt,… đều là những cái tên hiện không còn “hot” trên văn đàn, chắc vì biết mình “tài cạn”, “tâm tối” nên chỉ còn cách dùng chiêu PR hâm nóng tên tuổi thường thấy trong Showbis Việt. Cái danh sách này, với những cái tên như Hà Sĩ Phu, Nguyễn Quang Lập, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Huệ Chi, Châu Diên,… nổi lên là những “chấy thức” thường xuyên có những hành động, phát ngôn  vu cáo, xuyên tạc hoặc đả kích chế độ thì tự nó cũng đã vạch áo cho người ta xem và khiến người ta không thể tin được những gì hoa mỹ, “đao to búa lớn” mà họ đã hùng hồn đăng tải trên mạng. Dư luận hoàn toàn có thể hoài nghi về mục đích thực sự của VĐĐLVN cũng như việc có hay không một tổ chức nào đó giật dây cho những con người háo danh hoạt động?