Cách nay 47 năm (1975), khi thời cơ tổng công kích vào thành lũy cuối cùng của chính quyền Sài Gòn đã điểm, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết địnhmởchiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Sau gần 04 ngày tổng tiến công và nổi dậy, trưa ngày 30/4/1975, quân và dân ta làm chủ thành phố Sài Gòn – Gia Định, bắt giữ và buộc Tổng thống chính quyền Sài Gòn phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, đánh dấu sự chấm hết của chế độ thực dân mới, mà đế quốc Mỹ đã dày công xây dựng bị sụp đổ hoàn toàn.Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta nửa cuối thế kỷ XX, có ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại sâu sắc.
Sau khi Hiệp định Paris “Về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết (27/01/1973),
nhận thấy tương quan so sánh lực lượng đã hoàn toàn nghiêng về phía ta, ngày 07/01/1975,
Bộ Chính trị họp “Bàn về tình hình và nhiệm vụ cuộc chống Mỹ, cứu nước” hạ
quyết tâm lịch sử: Giải phóng miền Nam. Bộ Chính trị nhận thấy quân
Mỹ khó có khả năng quay lại tham chiến tại miền Nam và nhất trí thông qua
phương án giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 – 1976, đồng thời chọn chiến
trường Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu và xác định: “Chúng ta phải cố
gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Điều đó là một khả năng hiện thực”[1].
Để kiểm chứng nhận định trên,
Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Đường số 14 – Phước Long, diễn ra từ ngày
13/12/1974 đến ngày 06/01/1975. Qua đòn trinh sát chiến lược này, Bộ Chính trị
đã họp bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Đặc biệt, sau
những thắng lợi liên tiếp của các đòn tiến công chiến lược, ngày 31/3/1975, Bộ
Chính trị nhận định: “Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ một ngày
bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững
thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc
thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt
đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm”[2].
Thực hiện quyết tâm của Bộ
Chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã đoàn kết một lòng, nỗ lực cao
độ, tạo thành sức mạnh “triều dâng thác đổ” như thế chẻ tre, tiến hành thắng
lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh – trận quyết chiến chiến lược quyết định cuối cùng
với quân thù. Chỉ trong một thời gian ngắn, với tinh thần “một ngày bằng hai
mươi năm”, cùng lực lượng áp đảo, với một khối lượng lớn vật chất hậu cần đã có
mặt ở khu vực tập kết, sẵn sàng tổng tiến công vào nội đô Sài Gòn. Chiến dịch
Hồ Chí Minh đã diễn ra và kết thúc thắng lợi vào ngày cuối cùng của tháng Tư
(30/4/1975), theo đúng nhận định của Bộ Chính trị. Sau gần 4 ngày tổng tiến
công và nổi dậy, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông thu
về một mối.
Chiến thắng 30/4/1975 của dân
tộc ta vô cùng vẻ vang oanh liệt, là thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam – Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
– Đường lối chiến tranh nhân dân: Toàn dân, toàn diện, tự lực, tự cường; vừa
kháng chiến vừa kiến quốc. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối,
phương pháp cách mạng và đường lối chiến tranh nhân dân độc lập, tự chủ, đúng
đắn, sáng tạo và đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo
bảo đảm thành công đường lối đó; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp; giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; giữa lợi
ích dân tộc và lợi ích quốc tế; động viên toàn dân, toàn quân đoàn kết tham gia
kháng chiến và kiến quốc, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại,
đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đến thắng
lợi hoàn toàn. Hơn nữa, chiến thắng 30/4/1975 còn là thắng lợi của nền văn hóa
Việt Nam được xây đắp từ tinh hoa văn hoá của 54 dân tộc anh em trên đất nước
ta, đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vươn
lên tự khẳng định sức sống trường tồn. Đó là nền văn hóa bắt nguồn từ lòng yêu
thiên nhiên, yêu con người, yêu đất nước, yêu độc lập, tự do, hòa bình; từ lòng
nhân ái, trọng chính nghĩa, ghét gian tà, thấm đượm chủ nghĩa nhân văn cao cả
và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam; cởi mở tiếp thu những tinh hoa của
nhiều nền văn hoá thế giới. Nền văn hoá ấy ngày càng được bồi đắp và không
ngừng phát huy lên tầm cao mới – Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Đó là cội nguồn sức mạnh vĩ đại của ý chí và trí tuệ Việt Nam, của bản
lĩnh, lòng quả cảm và cốt cách Việt Nam, tạo nên sức sống mãnh liệt của nền văn
hiến Việt Nam. Đồng thời, chiến thắng 30/4/1975 thể hiện sự hội tụ sức mạnh của
toàn dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đó là sức mạnh của chiến
tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại, với sự hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sĩ cả nước, với tinh thần:
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Thóc không thiếu một cân, quân không
thiếu một người” và khí phách: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi
phới dậy tương lai”; là thắng lợi của khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, tự
do và thống nhất non sông của dân tộc Việt Nam.
Đại tướng Văn Tiến Dũng –
Nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam thời chống Mỹ, cứu nước
đã khẳng định với các nhà báo và học giả phương Tây rằng: “Một lần nữa tôi muốn
nói rõ rằng nguồn gốc mọi thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một dân
tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình trong thời đại ngày nay”[3].
Hiện nay, trên một số phương
tiện thông tin đại chúng, website và mạng xã hội xuất hiện những luận điệu
xuyên tạc lịch sử, phủ nhận tầm vóc, ý nghĩa của Chiến thắng 30/4/1975; xuyên
tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta; hạ thấp tầm vóc của chiến thắng, cho rằng chiến thắng 30/4/1975
không thể gọi là một chiến thắng vẻ vang, mà chỉ là một kết quả tất nhiên khi
Mỹ thay đổi chính sách đối ngoại, rút quân, cắt viện trợ, bỏ rơi chính quyền và
quân đội Sài Gòn,… Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử đã bác bỏ những luận điệu sai
trái đó, vì cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam là cuộc
chiến đấu chính nghĩa nhằm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ miền Bắc xã
hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Thắng lợi vĩ đại
30/4/1975 là kết quả của cả một quá trình đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất
khuất của nhân dân Việt Nam. Do đó, chiến thắng 30/4/1975 thuộc về dân tộc Việt
Nam, Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại; thắng lợi của sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn
bè, các lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đúng như Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) đã khẳng định: “Năm
tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những
trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một
chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn
và có tình thời đại sâu sắc”[4].
Trong giai đoạn cách mạng
mới, dù tình hình quốc tế, khu vực luôn có những diễn biến phức tạp, khó lường;
sự nghiệp đối mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế vẫn còn
nhiều thách thức, khó khăn phải vượt qua nhưng tầm vóc, ý nghĩa và giá trị của
chiến thắng 30/4/1975 – Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước mãi
trường tồn. Đó vừa là niềm tự hào, là động lực và để lại nhiều kinh nghiệm quý
báu đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.
[1] ĐCSVN
- Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36, Nxb CTQG, H. 2004, tr.10.
[2] ĐCSVN
- Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36, Nxb CTQG, H. 2004, tr.95 –
96.
[3] Phạm
Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch: Vì sao Mỹ thất
bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb. Sự thật, H. 1986, tr.48.
[4] Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV (12/1976). Dẫn theo Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đảng toàn tập, Tập 37 (1976), Nxb CTQG, H. 2004,
tr.471.
(Nguồn Hương Sen Việt)