Sep 2, 2025

Cảnh giác với luận điệu xuyên tạc, chia rẽ mối quan hệ giữa Quân đội với Công an

         Thời gian gần đây, trên các trang mạng xã hội xuất hiện loạt bài viết “Phe Công an được nâng đỡ, phe Quân đội phản công?” của bút danh Minh Hải, đăng trên trang Saigonnhonew. Bài viết đã cố tình thổi phồng, bóp méo tình hình nội bộ của Đảng, đặc biệt là quan hệ giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân, cố ý dựng lên luận điệu sai trái rằng “Quân đội và Công an đang tranh giành quyền lực, ảnh hưởng” trước thềm Đại hội Đảng lần thứ XIV; có sự “đối đầu phe phái” giữa hai lực lượng; lãnh đạo cấp cao sử dụng quyền lực để “kiềm chế” hay “vượt mặt” lực lượng còn lại. Đây là những luận điệu nguy hiểm, nhằm chia rẽ khối đoàn kết trong nội bộ Đảng, phá hoại niềm tin của nhân dân với lực lượng vũ trang, và gián tiếp phục vụ âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Bộ đội Biên phòng phối hợp với các lực lượng Công an,
 dân quân địa phương tuần tra, bảo vệ chủ quyền
an ninh biên giới, biển, đảo

Thứ nhất, cần hết sức cảnh giác với dụng ý chính trị phía sau những luận điệu sai trái của Minh Hải. Bài viết của Minh Hải đã sử dụng cách lồng ghép, cắt xén, dẫn dắt thông tin mang tính ám chỉ, suy diễn vô căn cứ để khẳng định rằng: Quân đội và Công an “đấu đá” để giành ảnh hưởng chính trị. Một số lãnh đạo cấp cao “đưa ra tiêu chuẩn” hoặc “sắp xếp nhân sự” nhằm loại bỏ, kiềm chế lực lượng còn lại. Sự thay đổi nhân sự ở cấp cao là biểu hiện của đấu tranh quyền lực giữa hai “phe”.

Những lập luận này đều là sự xuyên tạc trắng trợn, bởi vì: công tác cán bộ trong Đảng được thực hiện chặt chẽ theo Điều lệ Đảng, Quy chế bầu cử trong Đảng, sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Không một cá nhân nào có thể tự ý quyết định nhân sự cấp cao theo ý chí chủ quan. Việc kiện toàn, bố trí nhân sự lực lượng Quân đội và Công an luôn nhằm mục tiêu chung là phục vụ lợi ích quốc gia, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân, chứ không vì lợi ích cục bộ hay “phe nhóm”. Dụng ý chính trị của những tài liệu kiểu này rất rõ: gây chia rẽ nội bộ, phá hoại niềm tin của nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng, kích động tâm lý nghi kỵ giữa hai lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc.

Thứ hai, đấu tranh bác bỏ luận điệu chia rẽ, gây mất đoàn kết nội bộ của các thế lực phản động, thù địch. Trong suốt chiều dài cách mạng Việt Nam, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân luôn là “thanh bảo kiếm” của Đảng, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Hai lực lượng này được sinh ra từ nhân dân, vì nhân dân, và cùng chung mục tiêu: bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Quân đội và Công an luôn phối hợp chặt chẽ, vừa bảo vệ hậu phương, vừa chiến đấu ở tiền tuyến. Những chiến thắng lịch sử như Điện Biên Phủ (1954), Đại thắng Mùa Xuân (1975) đều có dấu ấn phối hợp của cả hai lực lượng. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Quân đội và Công an tiếp tục phối hợp bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo, đấu tranh phòng chống tội phạm, khủng bố, bảo vệ an ninh mạng, an ninh kinh tế, v.v. Những dẫn chứng này khẳng định rằng không tồn tại và không thể tồn tại “đối đầu phe phái” giữa Quân đội và Công an, vì bất cứ sự rạn nứt nào đều trực tiếp gây nguy hại đến lợi ích dân tộc - điều mà cả hai lực lượng tuyệt đối tránh.

Thực tế hiện nay, Quân đội và Công an đang triển khai nhiều cơ chế phối hợp rất hiệu quả, như trong bảo vệ an ninh biên giới, biển đảo: Quân đội đảm nhiệm bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc phòng trên biển, trên bộ; Công an phối hợp đấu tranh chống buôn lậu, tội phạm ma túy, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Trong phòng chống tội phạm công nghệ cao: Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ cao (Bộ Công an) phối hợp với Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng (Bộ Quốc phòng) bảo vệ an ninh mạng quốc gia. Trong ứng phó thảm họa, cứu hộ, cứu nạn: Cả hai lực lượng cùng tham gia, như trong các đợt lũ lụt miền Trung, dịch Covid-19, sự cố thiên tai ở miền núi phía Bắc… Những kết quả phối hợp này cho thấy sự gắn bó chiến lược, tương hỗ lẫn nhau chứ không hề có mâu thuẫn quyền lực như bài viết xuyên tạc.

Tóm lại, bài viết của Minh Hải cố tình xuyên tạc về “mâu thuẫn, tranh giành quyền lực” giữa Quân đội và Công an là sự suy diễn chủ quan, không có căn cứ thực tiễn, đi ngược lại lịch sử đoàn kết, phối hợp của hai lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Nhân dân và cán bộ, chiến sĩ cần tỉnh táo nhận diện, kiên quyết bác bỏ những luận điệu sai trái này; đồng thời tiếp tục củng cố khối đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam mãi mãi là hai cánh tay thép của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, không kẻ thù nào có thể chia rẽ.

 (Trích nguồn: nhanvanviet.com)

 

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 - Sự thật lịch sử không thể xuyên tạc

        Trên trang mạng “Viettin”, bài viết của bút danh “BT” đã trắng trợn xuyên tạc bản chất lịch sử và nội dung của Tuyên ngôn Độc lập, với luận điệu ngụy biện rằng: “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp” và “Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay, đánh đổ chế độ quân chủ lập nên chế độ cộng hòa”. Theo tôi, đó là những điều không hoàn toàn thật, mà là một nửa sự thật, không phải là thật”. Luận điệu này không chỉ xuyên tạc bản chất lịch sử, mà còn thể hiện rõ mưu đồ chính trị nhằm hạ thấp vai trò của cách mạng Việt Nam, của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh; xúc phạm nghiêm trọng đến sự hy sinh xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam đã chiến đấu để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc.

1. Một sự xuyên tạc có chủ đích nhằm đánh tráo lịch sử để phủ nhận chính nghĩa. Bài viết của “BT” là một điển hình của kiểu “xuyên tạc nửa vời”, tức là cắt xén sự thật, bóp méo hoàn cảnh lịch sử nhằm tạo ra ảo tưởng về “tính khách quan”. Như chúng ta đã biết, trtước khi quân Nhật đảo chính Pháp vào tháng 3/1945, Việt Nam đã nằm dưới ách thống trị của thực dân Pháp gần một thế kỷ. Nhật Bản xuất hiện tại Đông Dương từ năm 1940 sau khi đánh chiếm Đông Á, nhưng vẫn giữ nguyên bộ máy thống trị của Pháp, chỉ thay đổi sau cuộc đảo chính ngày 9/3/1945. Sự hiện diện của Nhật không hề “giải phóng Việt Nam”, mà là sự thay thế một chủ nghĩa thực dân bằng một chủ nghĩa phát xít, tàn bạo và man rợ hơn. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là sự lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật, mà còn là sự đoạn tuyệt toàn diện và vĩnh viễn với chủ nghĩa thực dân Pháp và chế độ phong kiến, đưa đất nước sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do và dân chủ nhân dân. Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 là kết tinh của cuộc cách mạng đó, đồng thời tuyên bố trước toàn thế giới về chủ quyền không thể tranh cãi của dân tộc Việt Nam.

2. Tuyên ngôn Độc lập - chân lý lịch sử và pháp lý của nhân dân Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam không chỉ là một văn kiện tuyên bố chấm dứt chế độ thuộc địa, mà còn là bản cáo trạng hùng hồn đối với cả chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phát xít. Bằng những lập luận sắc sảo, Hồ Chí Minh đã dẫn tuyên ngôn của Hoa Kỳ (1776) và Cách mạng Pháp (1791) để khẳng định chân lý phổ quát về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi dân tộc, từ đó dẫn đến tuyên bố dứt khoát: “Chúng tôi tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả những đặc quyền của Pháp ở Việt Nam”. Đây không phải là một tuyên bố hình thức, càng không phải là “một nửa sự thật” như kẻ bút danh “BT” vu cáo. Mà là tuyên ngôn chính trị, pháp lý của một quốc gia độc lập, có chủ quyền, được sinh ra từ chính sức mạnh quật khởi của Nhân dân, từ công cuộc giải phóng dân tộc vĩ đại dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cần nhấn mạnh rằng: sự sụp đổ của phát xít Nhật là hệ quả của chiến tranh thế giới, nhưng sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả trực tiếp của Cách mạng Tháng Tám, với hàng triệu Nhân dân nổi dậy giành chính quyền trên cả nước. Không có một đạo quân viễn chinh nào “trao trả” tự do cho Việt Nam. Chính Nhân dân ta đã tự đứng lên giành lấy nó; vì thế, mọi luận điệu phủ nhận thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 năm 1945, phủ nhận giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là xuyên tạc bản chất của lịch sử dân tộc Việt Nam.

3. Luận điệu trong bài viết là chiêu bài nguy hiểm của chiến tranh thông tin và chân lý không thể bị bóp méo. BT ngụy biện rằng: “một nửa sự thật không phải là sự thật”, nhưng chính Y mới là kẻ đang cố tình cắt bỏ nửa còn lại của sự thật để bóp méo toàn bộ chân lý lịch sử. Đây là một thủ đoạn tinh vi nhưng không mới, được các thế lực phản động, lưu vong thường xuyên sử dụng nhằm gieo rắc hoài nghi trong quần chúng, đặc biệt là giới trẻ, những người có thể chưa nắm đầy đủ kiến thức lịch sử để phân biệt đúng, sai. Bằng những luận điệu “trí thức giả hiệu”, BT giả vờ “phản biện”, nhưng thực chất là tuyên truyền tư tưởng phản động; qua đó, từng bước hạ thấp vai trò của Đảng, bôi nhọ lãnh tụ Hồ Chí Minh, và sâu xa hơn, phủ nhận tính chính danh của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là cuộc chiến tranh thông tin – tư tưởng nguy hiểm, âm thầm nhưng đầy độc hại, mà mỗi người dân yêu nước cần nhận diện, đấu tranh bác bỏ.

Thực tiễn lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh, chế độ thực dân, phong kiến đã bị nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh lật đổ hoàn toàn bằng sức mạnh cách mạng. Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là minh chứng bất diệt cho thắng lợi đó. Không có sự thật nào vững chắc hơn sự thật đã được lịch sử ghi nhận bằng xương máu. Và không có thế lực nào, dù xảo trá đến đâu, có thể bóp méo được sự thật ấy. Những kẻ nhân danh “phản biện” để xuyên tạc, bôi đen lịch sử, nhất định sẽ bị lột mặt nạ trước ánh sáng công lý và lương tri dân tộc. Những luận điệu xuyên tạc của BT không chỉ vô căn cứ mà còn thể hiện rõ bản chất phản động, phản lịch sử./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)

 

Aug 29, 2025

“Vinh quang cho Đảng - Gánh nặng cho dân” - luận điệu xuyên tạc cần bác bỏ

     Tre Việt - Khi thời khắc kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang đến gần, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục gia tăng các hoạt động chống phá với nhiều chiêu trò tinh vi, trong đó đáng chú ý là những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị thiêng liêng các sự kiện chính trị, văn hóa trọng đại của dân tộc. Ngày 27/8/2025, trên trang facebook của tổ chức phản động Việt Tân đã xuất hiện những dòng trạng thái xuyên tạc cho rằng: “Một năm diễu binh tốn kém 2 lần. Để rồi sau đó tiền thuế tăng, rác tăng, điện tăng… Vinh quang cho Đảng - Gánh nặng cho dân”. Đây là sự xuyên tạc trắng trợn, cố tình bóp méo bản chất, đánh tráo khái niệm, nhằm hạ thấp ý nghĩa chính trị và tinh thần của những sự kiện mang tầm vóc quốc gia, gieo rắc tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong quần chúng, từ đó chia rẽ Nhân dân với Đảng. Luận điệu sai trái và độc hại ấy cần được nhận diện kịp thời và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

     Lễ diễu binh, diễu hành ở nước ta không phải là hoạt động phô trương hình thức như luận điệu xuyên tạc đã rêu rao, mà là nghi lễ chính trị - văn hóa thiêng liêng, được tổ chức vào những ngày lễ lớn của dân tộc như Quốc khánh 02/9, Ngày Chiến thắng 30/4, v.v. Đây là dịp thể hiện sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khẳng định niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đồng thời còn là thông điệp chính trị, là biểu tượng của niềm kiêu hãnh dân tộc. Qua đó, các thế hệ hôm nay và mai sau được bồi đắp thêm niềm tự hào dân tộc, hun đúc ý chí quyết tâm và trách nhiệm công dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nhìn ra thế giới có thể thấy, việc tổ chức lễ diễu binh, duyệt binh trong những ngày lễ lớn là thông lệ phổ biến ở nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển hàng đầu. Tại Mỹ, ngày 14/6/2025 vừa qua, lễ duyệt binh kỷ niệm 250 năm Ngày thành lập Quân đội được tổ chức trang trọng với sự tham gia của hàng nghìn quân nhân. Ở Pháp, quốc khánh 14/7 luôn gắn liền với lễ duyệt binh hoành tráng. Ở Nga, Ngày Chiến thắng 9/5 hằng năm được đánh dấu bằng lễ duyệt binh tại Quảng trường Đỏ, quy tụ hàng vạn binh sĩ cùng nhiều khí tài hiện đại, v.v. Vậy thì, Việt Nam - với truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước - hoàn toàn có cơ sở chính đáng để tổ chức các lễ diễu binh, diễu hành mang tầm vóc lịch sử và thời đại, vừa là sự kiện chính trị - văn hóa quan trọng, vừa là biểu tượng của niềm tự hào dân tộc.

     Một trong những thủ đoạn xuyên tạc phổ biến của các thế lực thù địch thường nhằm vào các vấn đề nhạy cảm, thu hút sự chú ý của dư luận, ở đây, Việt Tân khoét sâu vào vấn đề chi phí, coi đó là gánh nặng cho dân. Thực chất, kinh phí dành cho lễ diễu binh, diễu hành luôn được Nhà nước cân nhắc, tính toán chặt chẽ, nằm trong dự toán ngân sách quốc phòng - an ninh và các hoạt động kỷ niệm. Đây là ngân sách công khai, minh bạch, do Quốc hội quyết định, được quản lý và sử dụng đúng quy định. Luận điệu cho rằng diễu binh, diễu hành làm tăng thuế, tăng giá điện, tăng phí môi trường càng vô lý và sai sự thật. Thực tế nhiều năm qua, chưa bao giờ Nhà nước ta ban hành chính sách tăng thuế hay phí vì lý do tổ chức diễu binh, diễu hành. Các chính sách điều chỉnh thuế, giá điện, phí dịch vụ,… đều dựa trên căn cứ khoa học, kinh tế - xã hội khách quan, nhằm bảo đảm cân đối cung cầu, thúc đẩy phát triển và nâng cao đời sống Nhân dân. Hơn thế nữa, các sự kiện diễu binh, diễu hành còn góp phần kích thích du lịch, dịch vụ, quảng bá hình ảnh đất nước, mang lại lợi ích kinh tế - xã hội rõ rệt.

     Mặt khác, bản chất ngụy biện của luận điệu “vinh quang cho Đảng - gánh nặng cho dân” nằm ở chỗ cố tình tách rời Đảng ra khỏi Nhân dân. Thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam chính là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành của Nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mọi thành quả mà Đảng giành được đều vì lợi ích của Nhân dân. Vinh quang của Đảng cũng chính là vinh quang của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…”. Bởi vậy, mỗi lễ diễu binh, diễu hành trọng thể không phải chỉ là vinh quang riêng của Đảng, mà là vinh quang của Tổ quốc, là niềm tự hào của toàn thể Nhân dân Việt Nam.

     Mỗi cuộc diễu binh, diễu hành của đất nước là minh chứng sống động về sức mạnh chính trị, tinh thần và quân sự, là dịp để chúng ta tôn vinh lịch sử, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng là đúng đắn. Đó không phải là gánh nặng mà là vinh quang chung, sức mạnh chung và trách nhiệm chung của cả dân tộc. Có thể khẳng định rằng, những luận điệu xuyên tạc ý nghĩa của lễ diễu binh, diễu hành chỉ là trò hề xuyên tạc, nhằm gây hoài nghi, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng cần vạch trần và phản bác./.


Aug 27, 2025

Bác bỏ luận điệu xuyên tạc việc đổi thẻ đảng viên

        Tre Việt - Trong những ngày gần đây, các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị tiếp tục lợi dụng không gian mạng để tung ra nhiều luận điệu sai trái, xuyên tạc chủ trương đổi thẻ đảng viên của Đảng. Ngày 18/8/2025, trang “Chân Trời Mới Media” phát tán tài liệu có nội dung xuyên tạc, cho rằng, đổi thẻ đảng viên là hành động “thay máu”, “phủ nhận di sản chính trị” mà cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại. Đây là sự bịa đặt trắng trợn, nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, phá hoại sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ. Trước tình hình đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức rõ bản chất, âm mưu và kiên quyết đấu tranh, làm thất bại luận điệu sai trái, phản động này.

1. Đổi thẻ đảng viên là yêu cầu khách quan, xuất phát từ thực tiễn quản lý và sinh hoạt Đảng

Thẻ đảng viên không chỉ là giấy tờ tùy thân chính trị, mà còn là minh chứng cho tư cách, trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi đảng viên. Trong bối cảnh hiện nay, nhiều thẻ đảng viên đã cấp từ hàng chục năm trước, chất lượng vật liệu kém, dễ hư hỏng, khó khăn trong lưu giữ và sử dụng. Đặc biệt, trước yêu cầu chuyển đổi số, việc đổi thẻ đảng viên mới có tích hợp công nghệ hiện đại, mã định danh, bảo mật cao là hoàn toàn cần thiết. Điều này giúp nâng cao hiệu quả quản lý tổ chức, tạo thuận lợi cho sinh hoạt, chuyển sinh hoạt Đảng, đồng thời hạn chế tình trạng giả mạo, lợi dụng thẻ đảng viên vào mục đích xấu.

Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, Đảng ta đã nhiều lần đổi thẻ đảng viên cho phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tiễn. Sau mỗi lần đổi, công tác quản lý đảng viên đều thuận lợi, hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, lần đổi thẻ này là bước đi tất yếu, khoa học, phù hợp xu thế quản lý hiện đại, không hề liên quan đến những luận điệu xuyên tạc mà các thế lực thù địch bịa đặt.

2. Đổi thẻ đảng viên không phải “thay máu”, càng không phải “phủ nhận di sản”

Các thế lực thù địch cố tình gán ghép việc đổi thẻ đảng viên với khái niệm “thay máu”, hàm ý rằng Đảng đang thay đổi bản chất, phủ nhận lịch sử, “xóa bỏ” thế hệ đảng viên hiện nay. Đây là sự bịa đặt thâm độc, bởi trên thực tế, đổi thẻ đảng viên không hề làm thay đổi tư cách, quyền lợi hay nghĩa vụ của mỗi đảng viên. Người đảng viên vẫn là thành viên của tổ chức, vẫn được ghi nhận cống hiến, thành tích và quá trình rèn luyện của mình. Việc đổi thẻ đảng viên là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, có ý nghĩa chính trị sâu sắc, gắn liền với công tác quản lý hồ sơ đảng viên, an ninh chính trị nội bộ. Mỗi đảng viên khi nhận được thẻ đảng viên mới là sự ghi nhận của Đảng về phẩm chất, tư cách của người đảng viên, càng thấy vinh dự, trách nhiệm cao trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực. Vì vậy, những luận điệu “thay máu” chính là âm mưu phá hoại từ bên trong, làm suy yếu tổ chức mà chúng ta cần hết sức cảnh giác và nhận diện rõ.

Không dừng lại ở đó, một trong những luận điệu nham hiểm khác mà các thế lực thù địch rêu rao là việc đổi thẻ đảng viên đồng nghĩa với “phủ nhận di sản” mà cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại. Đây là sự xuyên tạc trắng trợn và vô đạo đức, bởi di sản chính trị to lớn của cố Tổng Bí thư để lại được thể hiện ở đường lối xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ở tư tưởng kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; ở quyết tâm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, làm trong sạch đội ngũ. Đó mới là giá trị bền vững, là kim chỉ nam cho hành động, đã và đang được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quán triệt, vận dụng và phát huy. Thực chất, đổi thẻ đảng viên chính là sự kế thừa và cụ thể hóa tinh thần “xây dựng, chỉnh đốn Đảng” mà cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dày công vun đắp; một tổ chức đảng kỷ luật, nghiêm minh, một đội ngũ đảng viên có hồ sơ, quản lý rõ ràng, minh bạch chính là biểu hiện sinh động của việc giữ gìn và phát huy di sản ấy.

3. Bản chất phản động của luận điệu xuyên tạc và yêu cầu kiên quyết đấu tranh

Phân tích kỹ sẽ thấy, luận điệu xuyên tạc việc đổi thẻ đảng viên chỉ là một trong muôn vàn chiêu trò chống phá mà các thế lực thù địch thường xuyên sử dụng nhằm vào Đảng ta. Mục tiêu sâu xa của chúng là gieo rắc hoang mang trong cán bộ, đảng viên để làm suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo; kích động mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ, tạo ra sự nghi ngờ lẫn nhau giữa các thế hệ; hạ thấp uy tín của đội ngũ lãnh đạo, phủ nhận thành tựu xây dựng, chỉnh đốn mà nhiều nhiệm kỳ đã kiên trì thực hiện; từng bước tiến tới phủ nhận vai trò lãnh đạo, tác động tiêu cực đến sự ổn định chính trị, xã hội, phục vụ cho âm mưu “diễn biến hòa bình”. Như vậy, xuyên tạc về đổi thẻ đảng viên không chỉ là hành vi vu khống trắng trợn, mà còn là một đòn tấn công chính trị có chủ ý, có hệ thống, cần phải kiên quyết đấu tranh, làm thất bại.

Trước các luận điệu sai trái đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về chủ trương đổi thẻ đảng viên, coi đây là nhiệm vụ quản lý thường xuyên, khoa học, góp phần hiện đại hóa công tác Đảng; đồng thời, tích cực tuyên truyền, giải thích cho quần chúng nhân dân, đồng chí, đồng đội hiểu rõ bản chất của việc đổi thẻ, tránh để bị kẻ xấu lôi kéo, kích động. Mỗi cá nhân cần chủ động tham gia đấu tranh, phản bác trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là mạng xã hội, nhằm vạch trần sự phi lý, phản động trong các luận điệu xuyên tạc; mỗi tổ chức cơ sở đảng phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng niềm tin, củng cố bản lĩnh, tạo “kháng thể” vững chắc trước các thông tin xấu độc, góp phần bảo vệ sự trong sạch, vững mạnh của Đảng./.

Không thể xuyên tạc mối quan hệ thủy chung, trong sáng giữa Việt Nam và Cuba

         Tre Việt - Thời gian gần đây, lợi dụng tình hình khó khăn của đất nước Cuba và Chương trình vận động ủng hộ nhân dân Cuba của Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Cuba (1960 - 2025), một số phần tử phản động, cơ hội đã lợi dụng không gian mạng để phát tán thông tin xuyên tạc, chia rẽ mối quan hệ thủy chung, trong sáng giữa Việt Nam và Cuba. Họ cho rằng, Việt Nam là quốc gia còn nghèo mà đi “lo chuyện bao đồng”, Chương trình Việt Nam ủng hộ Cuba là “làm màu”, “Việt Nam - Cuba chỉ là quan hệ hình thức”, “để tiền ủng hộ lo cho Nhân dân bị thiên tai, bão lũ”, v.v. Thực chất đây là những quan điểm phiến diện, với âm mưu chính trị hết sức tinh vi và nguy hiểm, cần phải nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Trước hết, quan hệ Việt Nam - Cuba là một trong những mối quan hệ hiếm có trong lịch sử quan hệ quốc tế, được xây dựng bằng máu, sự hy sinh vô tư và lòng thủy chung son sắt của cả hai dân tộc. Câu nói bất hủ của lãnh tụ Fidel Castro: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình” đã trở thành biểu tượng sáng ngời cho tình nghĩa quốc tế vô sản. Trong giai đoạn chiến tranh gian khổ, Cuba luôn giúp đỡ Nhân dân Việt Nam cả về vật chất và tinh thần, là nước đi đầu lên án Mỹ xâm lược Việt Nam và vận động các nước ủng hộ Việt Nam trên các lĩnh vực. Năm 1973, Cuba đã xây dựng 5 công trình lớn trị giá hơn 80 triệu USD (tương đương khoảng 600 triệu USD hiện nay) cho Việt Nam (gồm: Khách sạn Thắng lợi, Bệnh viện Đồng Hới, đường Xuân Mai, một trại gà và một trang trại bò sữa Ba Vì). Trong thời kỳ đổi mới và trong những giai đoạn khó khăn như đại dịch Covid-19, Cuba tiếp tục chia sẻ với Việt Nam bằng những hành động thiết thực, dù chính Nhân dân Cuba còn nhiều khó khăn.

Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam mãi ghi nhớ tình cảm và xem việc đoàn kết, ủng hộ và hợp tác với Cuba là mệnh lệnh của trái tim, là chủ trương nhất quán không bao giờ thay đổi. Năm 2018, Việt Nam quyết định xóa toàn bộ khoản nợ cũ cho Cuba, thường xuyên cử các chuyên gia kinh tế đến Cuba để chia sẻ kinh nghiệm; đồng thời, kêu gọi Mỹ sớm dỡ bỏ lệnh cấm vận Cuba. Nhân dịp kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Cuba (1960 - 2025), Việt Nam phát động Chương trình vận động ủng hộ Nhân dân Cuba, với chủ đề “65 năm nghĩa tình Việt Nam - Cuba” (thời gian từ 13/8 - 16/10/2025). Tính đến 11h00 ngày 26/8, Chương trình đã thu hút gần 1,9 triệu lượt người tham gia, với số tiền ủng hộ trên 377,5 tỉ đồng, gấp gần 6 lần mức mục tiêu đề ra (65 tỉ đồng). Sự giúp đỡ của Việt Nam giành cho Cuba không chỉ hợp lý, mà còn là hành động nhân văn, nghĩa cử cao cả của một quốc gia trọn nghĩa, vẹn tình, ngày càng đi vào thực chất, chứ đâu phải “lo chuyện bao đồng”, hay “làm màu” như các thế lực thù địch xuyên tạc.

Thứ hai, sự sẻ chia với đất nước và Nhân dân Cuba thể hiện rõ bản lĩnh và trách nhiệm quốc tế của Việt Nam. Một dân tộc từng trải qua chiến tranh, từng bị bao vây cấm vận, hơn ai hết, Việt Nam hiểu giá trị của sự giúp đỡ, đoàn kết. Đảng và Nhà nước ta nhiều lần khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng làm bạn, đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Chính vì vậy, việc giúp đỡ đất nước và Nhân dân Cuba không chỉ là nghĩa tình, mà còn là minh chứng khẳng định uy tín, vị thế, bản lĩnh và trách nhiệm của Việt Nam trong thời đại hội nhập. Bên cạnh đó, giúp đất nước và Nhân dân Cuba sẽ mở ra nhiều kênh hợp tác thực chất, nhất là trong nông nghiệp, y tế, giáo dục và dược phẩm. Cuba là quốc gia có thế mạnh về công nghệ sinh học và y tế; nhiều sản phẩm vắc-xin, thuốc đặc trị của Cuba đã được chuyển giao, hỗ trợ Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam có kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, sản xuất lúa gạo, có thể chia sẻ để giúp Cuba bảo đảm an ninh lương thực. Mối quan hệ này vừa là nghĩa tình thủy chung, vừa là hợp tác đôi bên cùng phát triển, không hề “hình thức” như các luận điệu xuyên tạc.

Thứ ba, họ cho rằng, Việt Nam nên “dành tiền ủng hộ cho đồng bào bị thiên tai, bão lũ” trong nước thay vì giúp Cuba. Đây là sự đánh tráo trắng trợn và cố tình gây chia rẽ trong lòng Nhân dân. Thực tế, Việt Nam chưa bao giờ thờ ơ với Nhân dân mình. Hằng năm, Quỹ Cứu trợ Trung ương cùng các địa phương, tổ chức, cá nhân đã quyên góp, hỗ trợ hàng nghìn tỉ đồng cho đồng bào vùng bão lũ, thiên tai và Nhân dân ở các địa bàn còn gặp nhiều khó khăn. Năm 2020, khi miền Trung trải qua đợt lũ lụt lịch sử, chỉ trong vài tuần, Nhân dân cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài đã quyên góp được trên 2.000 tỉ đồng để cứu trợ, giúp hàng triệu người dân sớm ổn định cuộc sống. Năm 2023, trong đợt mưa lũ tại miền Bắc, tổng số tiền hỗ trợ, cứu trợ cũng lên tới hàng trăm tỷ đồng, v.v.

Không chỉ hỗ trợ đồng bào trong thiên tai, bão lũ, Việt Nam còn triển khai nhiều chương trình an sinh xã hội và đạt được nhiều kết quả tích cực, chính sách không ngừng cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được chăm lo ngày một tốt hơn. Đặc biệt, Chương trình hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước với chủ đề “Mái ấm cho đồng bào tôi” giai đoạn 2021 - 2025 đã tạo sự lan tỏa tích cực trên phạm vi cả nước. Đến nay, đã có hơn 330.000 căn nhà được xây mới hoặc sửa chữa, với tổng kinh phí hàng chục nghìn tỉ đồng. Qua đó, giúp Nhân dân còn khó khăn có chỗ ở an toàn, kiên cố, hiện thực hóa phương châm của Đảng và Nhà nước ta: “Không để ai bị bỏ lại phía sau”. Như vậy, việc Việt Nam ủng hộ Nhân dân Cuba không hề đồng nghĩa với việc lãng quên đồng bào mình. Ngược lại, nó cho thấy tinh thần nhân ái, vừa lo cho dân tộc, vừa sẻ chia với bạn bè quốc tế. Đó là cách ứng xử nhân văn, khẳng định tầm vóc, bản lĩnh của một đất nước biết “nghĩa tình trước sau”, khác xa với những luận điệu hẹp hòi, ích kỷ mà các thế lực thù địch cố tình gieo rắc.

Quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam và Cuba do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro đặt nền móng mãi mãi là biểu tượng bất diệt của chủ nghĩa quốc tế trong sáng, vô tư và thủy chung, là niềm tự hào của các thế hệ Nhân dân hai nước; là nguồn cảm hứng giáo dục thế hệ trẻ. Chúng ta cần nhận diện kịp thời và kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, chia rẽ mối quan hệ thủy chung, trong sáng giữa hai dân tộc./.

 

 

Aug 26, 2025

Bản báo cáo thiếu khách quan về tình hình nhân quyền tại Việt Nam

         Ngày 12/8/2025, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố Báo cáo tình hình nhân quyền năm 2024 của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Giống như báo cáo thường niên các năm trước, tài liệu này tiếp tục đưa ra những nhận định tiêu cực, phản ánh không đúng về tự do ngôn luận, báo chí, internet và tôn giáo ở Việt Nam.Ngay sau khi công bố, bản báo cáo đã nhận nhiều ý kiến chỉ trích từ các chuyên gia về tính thiên lệch và động cơ chính trị đằng sau cách chọn lọc dữ kiện.

Lễ hoa đăng kĩnh mừng Phật đản tại chùa Pháp Hoa,
Thành phố Hồ Chí Minh thu hút đông đảo phật tử,
người dân tham dự (Ảnh: BTC)

Theo các chuyên gia, cách thức trình bày bản báo cáo năm nay từ Bộ Ngoại giao Mỹ có nhiều điểm bất hợp lý, như cấu trúc bị cắt xén, bỏ qua nhiều chủ đề vốn là trọng tâm trong đánh giá quyền con người như quyền của phụ nữ, người khuyết tật, chống tham nhũng hay quyền hội họp ôn hòa. Đồng thời, bản báo cáo cũng vấp phải sự chỉ trích từ một số tổ chức nhân quyền lẫn giới chuyên gia về tính thiên lệch và động cơ chính trị đằng sau cách sử dụng dữ liệu để đánh giá, vì vậy “bản báo cáo lẫn lộn giữa sự thật, đánh tráo và tô hồng”; “cách lựa chọn quốc gia mang màu sắc chính trị khiến công cụ giám sát truyền thống của Quốc hội Mỹ suy giảm độ tin cậy”, v.v.

Thí dụ trong việc chọn lọc nguồn thông tin để kiểm chứng, mặc dù đưa ra cáo buộc với một số quốc gia, trong đó có Việt Nam, nhưng văn bản chỉ dùng cụm từ chung chung đó là “có báo cáo đáng tin cậy” mà thiếu dẫn chứng cụ thể hoặc phớt lờ những số liệu chính thống vốn là yêu cầu có tính bắt buộc. Bởi vậy bản báo cáo bị đặt dấu hỏi về tiêu chí, sự độc lập, và tính khách quan.

Bày tỏ quan điểm về vấn đề này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nhấn mạnh: “Báo cáo nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ, công bố ngày 12/8, chưa phản ánh được các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong bảo vệ quyền con người. Báo cáo tiếp tục đưa ra những nhận định không khách quan, dựa trên thông tin không chính xác, chưa được kiểm chứng về tình hình thực tế tại Việt Nam”.

Thực tiễn đã chứng minh, 80 năm qua, kể từ khi thành lập nước cho đến nay, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện chính sách bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, lấy con người làm trung tâm, chủ thể, mục tiêu và động lực của phát triển. Cụ thể Hiến pháp 2013, tại Chương II quy định các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó Điều 14 khẳng định: “các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Các điều từ 15 đến 26 quy định cụ thể quyền tự do ngôn luận, báo chí, tín ngưỡng, tôn giáo, cư trú, đi lại, bình đẳng giới,... các nội dung này đều được luật hóa, như Luật Báo chí 2016; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016; Luật An ninh mạng 2018, v.v.

Những thành tựu về quyền con người ở Việt Nam gắn liền với những cải cách thể chế, kinh tế-xã hội, và có chiều sâu: từ xóa đói giảm nghèo, mở rộng giáo dục, y tế đến bảo đảm an sinh cho nhóm yếu thế. Một trong những minh chứng đó là tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân đạt mức cao và liên tục tăng: năm 2023 là 93,2%, năm 2024 là 94,1% và năm 2025 là 95,15% dân số được tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản, rộng khắp. Về xóa nghèo, các báo cáo nghèo đa chiều cấp quốc gia cho thấy tỷ lệ nghèo tiếp tục xu hướng giảm: năm 2024 tỷ lệ nghèo đa chiều chung toàn quốc là 4,06%, giảm 1,65% so với năm 2023.

Ngân hàng Thế giới (WB) mô tả Việt Nam là câu chuyện thành công nổi bật về đổi mới, chuyển đổi và giảm nghèo, đồng thời chỉ ra rằng chính sách của Việt Nam đã hướng đến các nhóm dễ tổn thương, phù hợp tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Còn ở bình diện phát triển con người, bà Ramla Khalidi, Trưởng Đại diện Thường trú của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam ghi nhận: “Việt Nam đã duy trì vị thế là một quốc gia có sự phát triển con người cao trong suốt những năm tháng khó khăn của đại dịch Covid-19. Phát triển con người tiếp tục là một trọng tâm trong chiến lược phát triển của Việt Nam, và chúng ta đã thấy những tiến bộ rất đáng kể trong vài thập kỷ qua”.

Theo báo cáo của UNDP năm 2023 chỉ số HDI của Việt Nam đạt 0,766, xếp hạng 93/193 quốc gia và vùng lãnh thổ, thuộc nhóm các quốc gia có mức phát triển con người cao. Từ năm 1990-2023, chỉ số HDI của Việt Nam đã tăng 53,5%, đây là một bước tiến ngoạn mục. Những con số này không chỉ phản ánh nỗ lực nội tại mà còn là minh chứng trong việc Việt Nam quan tâm, bảo vệ quyền cơ bản như quyền sống, quyền được chăm sóc sức khỏe và quyền phát triển, đặc biệt với phụ nữ, trẻ em và người khuyết tật - những lĩnh vực mà báo cáo nhân quyền năm 2024 của Bộ Ngoại giao Mỹ đã bỏ qua, dẫn đến sự đánh giá thiếu toàn diện.

Từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã hai lần được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 – 2016 và 2023 - 2025), điều này cho thấy sự tin cậy của cộng đồng quốc tế với Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền. Đáng chú ý tại chu kỳ Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) lần thứ tư, phiên đối thoại tháng 5/2024 và thông qua kết quả tháng 9/2024 ghi nhận Việt Nam chấp nhận 271/320 khuyến nghị - tỷ lệ 84,7%, cao nhất trong bốn chu kỳ, phản ánh thái độ cầu thị và tinh thần cải cách thông qua cơ chế đa phương.

Quay trở lại với bản báo cáo gây tranh cãi của Bộ Ngoại giao Mỹ, báo cáo không đặt Việt Nam trong bối cảnh lịch sử - văn hóa đặc thù, nhất là khi đánh giá các quyền vừa đòi hỏi mở rộng không gian tự do, vừa phải gắn với yêu cầu thượng tôn pháp luật và bảo vệ an ninh, trật tự. Liên quan đến hai nội dung nổi bật mà trong bản báo cáo đề cập tới đó là tự do internet và tự do tôn giáo ở Việt Nam, báo cáo đã đưa ra những đánh giá không phản ánh đúng tình hình thực tế. Như vấn đề tự do internet, Việt Nam lựa chọn con đường “mở có trách nhiệm”: theo đó mở rộng truy cập, kỹ năng số và dịch vụ số cùng với việc thiết lập rào chắn pháp lý trước tội phạm công nghệ cao, lừa đảo xuyên biên giới, xâm phạm trẻ em, kích động thù hằn, khủng bố mạng. Luật An ninh mạng và Nghị định số 13/2023/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 17/4/2023 về bảo vệ dữ liệu cá nhân 2023 là thí dụ điển hình về nỗ lực tìm điểm cân bằng giữa quyền riêng tư, tự do biểu đạt và an ninh cộng đồng. Tại Liên minh châu Âu hay các nền dân chủ phát triển cũng đang xử lý bài toán này bằng những bộ khung như GDPR (Luật bảo mật và quyền riêng tư dữ liệu mới của châu Âu), DSA (Đạo luật Dịch vụ Kỹ thuật số), v.v. Báo cáo cũng bỏ qua những nỗ lực của Việt Nam trong việc chuyển đổi số, phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số đến năm 2030.

Với những chính sách kịp thời, đúng đắn, Việt Nam trở thành điểm sáng trong khu vực về chính phủ số và hạ tầng. Việc người dân có thể chủ động đăng ký kinh doanh trực tuyến, khám chữa bệnh bảo hiểm y tế dùng căn cước công dân, hay cổng dịch vụ công tích hợp… cho thấy internet ở Việt Nam không chỉ là “không gian biểu đạt ý kiến” (năm 2024 Việt Nam có hơn 72 triệu người sử dụng mạng xã hội, chiếm khoảng 73% dân số) mà còn là hạ tầng thực thi quyền cơ bản của công dân, mang lại điều kiện sống ngày càng dân chủ, văn minh hơn.

Trong lĩnh vực tôn giáo, năm 2024, diễn ra nhiều hoạt động tôn giáo sôi nổi như: trao Quyết định công nhận tổ chức tôn giáo cho Hội thánh Tin Lành Liên hiệp Truyền giáo Việt Nam (tháng 4); Đại lễ Phật đản 2024 (tháng 5); ngày 13/6/2024 Chủ tịch nước Tô Lâm gặp mặt Đoàn đại biểu các chức sắc, lãnh đạo các tổ chức tôn giáo; Đại hội đồng Giáo phẩm Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền nam) lần thứ 11 (tháng 7); Đại hội đồng lần thứ IV Giáo hội Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam, Đại lễ kỷ niệm 100 năm ngày hoằng khai Đại đạo Tam kỳ Phổ độ (tháng 11), v.v.

          Tính đến tháng 8/2025, cả nước có 95% dân số theo tín ngưỡng, tôn giáo; 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận và cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động với trên 27,7 triệu tín đồ. Cùng với Hiến pháp, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 và các nghị định hướng dẫn tạo khung pháp lý vững chắc và thiết lập cơ chế minh bạch để thực thi quyền tự do tôn giáo, gắn với mục tiêu đoàn kết dân tộc và phát triển đất nước.

Việt Nam đã tham gia phần lớn các điều ước quốc tế cốt lõi về quyền con người của Liên hợp quốc, bao gồm: Công ước ICCPR về quyền dân sự, chính trị; ICESCR về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; CEDAW về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ; CRC về quyền trẻ em; CERD về xóa bỏ phân biệt chủng tộc; CAT về chống tra tấn; CRPD về quyền của người khuyết tật… Từ đây thể hiện sự nhất quán của Việt Nam trong việc thực hiện nghiêm túc các tiêu chuẩn phổ quát của quốc tế và kiên trì mục tiêu phát triển bao trùm, toàn diện về quyền con người.

Cần nhấn mạnh rằng, năm 2023, Việt Nam và Mỹ nâng cấp quan hệ lên “Đối tác chiến lược toàn diện” vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Tại Tuyên bố chung tái khẳng định các nguyên tắc cơ bản đã được hai bên thống nhất khi xác lập quan hệ Đối tác toàn diện từ năm 2013, đó là tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.

Trên cơ sở đó, nhân quyền cần được xem là lĩnh vực tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Việt Nam luôn bày tỏ thiện chí đón các đoàn, các tổ chức quốc tế tới tìm hiểu thực tế tại Việt Nam, đồng thời sẵn sàng trao đổi thẳng thắn với Mỹ về những khác biệt trên tinh thần xây dựng, qua đó góp phần củng cố lòng tin, làm giàu thêm sự hiểu biết. Những đánh giá không chính xác thiếu khách quan về Việt Nam trong báo cáo tình hình nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ rất cần được điều chỉnh trong những năm tới vì lợi ích của người dân hai nước và vì tương lai phát triển bền vững của mỗi quốc gia./.

(Trích nguồn: nhandan.vn)

 

Aug 25, 2025

Đảng luôn đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết

        Trên trang “Doithoaionline”, Phạm Đình Bá đăng tải bài viết với tiêu đề: “Nếu Đảng Cộng sản mở mắt ra, sẽ thấy nhiều thứ”. Y cho rằng: “Những khủng hoảng chồng chéo và đau khổ trong xã hội là do Đảng Cộng sản Việt Nam đặt lợi ích của thiểu số trong Đảng lên trên phúc lợi của toàn dân”. Đây là một luận điệu không chỉ sai về bản chất, lệch về logic, mà còn gây bất ổn xã hội nếu không kịp thời đấu tranh, phản bác.

       1. Luận điệu của Phạm Đình Bá là phi lý và phản thực tế. Như chúng ta đã biết, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam đặt lợi ích của một nhóm thiểu số trong Đảng lên trên phúc lợi nhân dân, thì làm sao đất nước Việt Nam từ tro tàn chiến tranh, có thể vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, duy trì tăng trưởng GDP bền vững hàng năm, và được cộng đồng quốc tế đánh giá là một “hình mẫu phát triển hậu xung đột” điển hình? Chính Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo công cuộc đổi mới, bắt đầu từ năm 1986. Đây là dấu mốc, là bước ngoặt vĩ đại mang lại sự chuyển mình toàn diện cho đất nước. Đảng ta đã chấp nhận đổi mới tư duy, thay đổi mô hình phát triển, dám “tự sửa mình” để dân tộc Việt Nam được ấm no, tự do, hạnh phúc. 

       Trong những năm qua, nếu Đảng vì thiểu số, sao lại quyết liệt phát động và duy trì công cuộc chống tham nhũng, tiêu cực, mà nhiều người gọi là “lò lửa đốt không có vùng cấm”? Bao nhiêu cán bộ cấp cao đã bị xử lý, trong đó có cả Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng, những tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang, những người từng giữ trọng trách trong Đảng? Những con người đó có phải chính là “thiểu số trong Đảng” mà luận điệu kia định ám chỉ?

       2. Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện lợi ích toàn dân, luôn tự soi, tự sửa để hoàn thiện, phát triển. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ, Đảng Cộng sản không đại diện cho quyền lực của một giai cấp thiểu số, mà là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc. Tổ chức Đảng không tồn tại để ưu đãi nội bộ, mà để dẫn dắt toàn xã hội tiến bộ. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là “vì lợi ích của đất nước, của Nhân dân”. Mọi chính sách, pháp luật, kế hoạch phát triển quốc gia đều xoay quanh một trục trung tâm là Nhân dân, lấy dân làm gốc. Từ nghị quyết trung ương đến chính sách cụ thể, luôn lấy hạnh phúc của người dân là thước đo của thành công chính trị. Đây không phải là khẩu hiệu, mà là nguyên lý tổ chức quyền lực kiểu mới, quyền lực gắn liền trách nhiệm với nhân dân. Thực tiễn hiện nay, chúng ta không ai phủ nhận rằng đất nước còn nhiều khó khăn; một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất; một số chính sách còn chậm thay đổi. Nhưng quy kết toàn bộ trách nhiệm cho “Đảng đặt quyền lợi thiểu số lên trên phúc lợi toàn dân” là sự đánh tráo khái niệm trắng trợn. Chính Đảng đã nhận diện thẳng thắn trong các văn kiện rằng: Có tình trạng “suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”, có biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nhưng quan trọng là: Đảng không né tránh. Đảng chủ động nhận khuyết điểm, đề ra giải pháp, hành động cụ thể và mạnh mẽ hơn bất kỳ đảng cầm quyền nào ở các quốc gia khác trong việc làm trong sạch bộ máy.

       Những người như Nguyễn Đình Bá tung ra luận điệu trên thường không quan tâm đến nỗi đau của dân, mà lợi dụng khó khăn của dân để thổi bùng tâm lý chống đối, nhằm xuyên tạc bản chất của chế độ, kích động chia rẽ nội bộ, làm suy yếu niềm tin của nhân dân với Đảng. Chúng chỉ nhìn vào biểu hiện cá biệt của một vài phần tử suy thoái để phủ nhận vai trò toàn diện và thành tựu to lớn của một Đảng gần 100 năm gắn bó với dân tộc, từ trong chiến hào kháng chiến đến thời kỳ hội nhập và phát triển. Đó là hành vi thổi phồng thiếu sót để phá hoại chính trị chứ không phải hành động góp ý xây dựng như chúng vẫn ngụy trang.

       Niềm tin của nhân dân Việt Nam dành cho Đảng không phải là niềm tin mù quáng, mà là niềm tin có cơ sở từ thực tiễn lịch sử, lý luận chính trị và đạo lý dân tộc. Những ai thực sự vì Nhân dân, hãy cùng Đảng sửa sai, khắc phục khuyết điểm, thúc đẩy đổi mới. Còn những kẻ đội lốt “nhân danh Nhân dân” như Phạm Đình Bá để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, dù chúng có núp dưới vỏ bọc nào, rồi cũng sẽ bị lịch sử và nhân dân đào thải. Đảng Cộng sản Việt Nam chắc chắn là lực lượng duy nhất hiện nay đủ bản lĩnh, trí tuệ và uy tín để lãnh đạo đất nước vững bước tiến lên cùng toàn quân và toàn dân bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.vn)


Aug 21, 2025

Sự hiểu biết “mơ hồ”của Phạm Đình Trọng về chủ nghĩa xã hội

           Trên trang “Baotiengdan”, Phạm Đình Trọng có bài viết “Cái đuôi của chính trị”; nội dung bài viết là những luận điệu xuyên tạc, phản động về chủ nghĩa xã hội nói chung và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói riêng. Phạm Đình Trọng cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới… Ở Việt Nam, Chủ nghĩa xã hội là cuộc chiến tranh ý thức hệ đẫm máu…gây li tán sâu sắc cả dân tộc Việt Nam”. Đây là những luận điệu thể hiện rõ sự mơ hồ có chủ đích của Phạm Đình Trọng, bởi vì sự thật lịch sử không phải như vậy:

Một là, chủ nghĩa xã hội được hình thành, phát triển trên mảnh đất hiện thực khoa học và cách mạng. Chủ nghĩa xã hội là một hệ tư tưởng và một phong trào chính trị nhằm xây dựng một xã hội mà ở đó mọi người đều bình đẳng về kinh tế và chính trị; không còn áp bức, bóc lột, bất công. Với thiên tài bẩm sinh, trí tuệ uyên bác, đắm mình vào hoạt động thực tiễn của giai cấp công nhân, quần chúng nhân dân lao động C.Mác, Ph.Ănghen, V.I. Lênin đã đưa chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học; từ lý luận trở thành hiện thực. Thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Kể từ đó đến nay, chủ nghĩa xã hội đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, trở thành lực lượng đối trọng với chủ nghĩa tư bản. Những thành tựu mà Liên Xô và các nước Đông Âu đạt được về kinh tế, khoa học, kỹ thuật, quân sự; đặc biệt trong cuộc chiến tranh vệ quốc cứu nhân loại khỏi thảm hoạ diệt chủng của chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ hai là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX khi bước vào cải tổ, cách cách Liên Xô và các nước Đông Âu đã mắc sai lầm nghiêm trọng về đường lối dẫn đến sụp đổ. Song có thể khẳng định, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Ðông Âu trước đây chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, chứ không thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, không phải do sai lầm trong lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin mà chỉ là “bước thụt lùi tạm thời”. Bởi sự nghiệp đổi mới, cải cách, cải tổ ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay như: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cuba… với khoảng 1,5 tỷ người đã nói lên sức sống và giá trị thời đại của nó tiếp tục được khẳng định trong tương lai là một chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch sử nhân loại.

Hai là, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự lựa chọn duy nhất đúng. Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xác định mục tiêu cách mạng, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của lịch sử. Đảng lãnh đạo cách mạng và được tất cả các giai tầng trong xã hội Việt Nam thừa nhận. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã giành những thắng lợi vẻ vang, hoàn thành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, nhân dân được hưởng nền độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đất nước, sự lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam càng được thử thách và khẳng định, đưa Việt Nam có “thế và lực” mới, đất nước “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Hiện nay, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế, kinh tế tăng trưởng khá và trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; hoàn thành sớm mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa đói, giảm nghèo, là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới; thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới; có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 34 nước; là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế; là một trong 34 nền kinh tế lớn nhất thế giới; quy mô kinh tế tăng gấp 100 lần so với năm 1986. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 100 USD lên gần 5000 USD, nằm trong nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Mỗi người dân Việt Nam luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào quan điểm, đường lối phát triển đất nước luôn cần nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không nghe, không tin những thông tin sai trái, phản động đi ngược lại với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)

 

Aug 19, 2025

Cái nhìn thiển cận của Vũ Đức Khanh

            Trên trang Việt Tân, Vũ Đức Khanh đã đăng tải bài viết “Con đường Việt Nam trong thế kỷ XXI: Lựa chọn giữa Tự do hay Chuyên quyền”, với những luận điệu hết sức thiển cận và vô lý, mang tính chất xuyên tạc, phản động, chống phá Đảng, chống phá nền độc lập, tự do của dân tộc, đi ngược với những thành quả phát triển trong 80 năm qua ở nước ta.

1. Luận điệu cho rằng, Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập 02/9/1945 là giành độc lập dân tộc - nhưng chưa bao giờ có một cuộc cách mạng thực sự để giành lại quyền làm người và quyền làm công dân cho từng người dân. Đây là luận điệu hết sức sai trái, xuyên tạc. Chúng ta cần phải khẳng định, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của dân tộc ta, đất nước ta. Thắng lợi này đã chính thức chấm dứt ách đô hộ gần 90 năm của thực dân Pháp đối với nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập “Đưa người nô lệ thành người tự do”. Lần đầu tiên tên nước Việt Nam có trên bản đồ thế giới, với tư cách và vị thế của một quốc gia, dân tộc tự do độc lập, có chủ quyền mà trước đó, trên địa đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn chữ “Đông Dương thuộc Pháp”. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời; kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, nhân dân ta đã tự “làm chủ vận mệnh” của mình; trở thành nguồn động viên to lớn để nhiều dân tộc thuộc địa đứng lên giành độc lập. Trong lời thoái vị của vua Bảo Đại - Vị vua cuối cùng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn đọc trước sự chứng kiến của hàng vạn người dân mít tinh trước cửa Ngọ Môn, kinh thành Huế ngày 30/8/1945, ông đã phát biểu rằng “thà được làm dân của nước tự do hơn làm vua của nước nô lệ”.

2. Luận điệu cho rằng, cuộc cách mạng mùa Thu năm 1945, dù mở đầu của ngôn ngữ tự do, cuối cùng lại kết thúc bằng sự thống trị của một đảng duy nhất. Đây là lời lẽ hết sức phản động, kính động, xuyên tạc. Bởi lẽ, một đảng đã chứng minh giá trị trong lịch sử, đã lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và ngày nay càng khẳng định vai trò lãnh đạo đất nước đến vị thế cao trên trường quốc tế, vững bước để tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Tám mươi năm qua, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đoàn kết đấu tranh, lao động cần cù, sáng tạo, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách; đất nước giành được nhiều thắng lợi vẻ vang và không ngừng phát triển. Đến nay, nước ta trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; kinh tế tăng trưởng khá; chính trị, xã hội ổn định; văn hóa, xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế được nâng cao. Theo Nghị quyết số 158/2024/QH15 của Quốc hội: tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 6,5 - 7,0% và phấn đấu khoảng 7,0- 7,5%; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.900 USD; Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới khoảng 80,5 - 81,5%, v.v. Nhiều học giả người nước ngoài có dịp đến Việt Nam và nghiên cứu về Việt Nam đã cho rằng Việt Nam rất thành công và đạt được nhiều tiến bộ trong giải quyết vấn đề liên quan đến con người như chương trình xóa đói giảm nghèo và hoàn thành sớm mục tiêu thiên niên kỷ.

Như vậy, các luận điệu cố gắng bôi nhọ những sự kiện lịch sử trọng đại đã trở thành niềm tự hào của đất nước, của dân tộc như Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 02/9/1945 và thực tiễn phát triển của đất nước càng phơi bày sự vô lương tâm, thiếu hiểu biết, thiển cận của Vũ Đức Khanh và các thế lực thù địch. Thực tế cuộc sống ấm no, hạnh phúc của người dân và đất nước ta ngày càng được phát triển là những minh chứng bác bỏ mọi âm mưu, thủ đoạn phản động, xuyên tạc của chúng./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)

 

Aug 18, 2025

Cáo buộc vô căn cứ về “đàn áp tự do tôn giáo, tín ngưỡng” ở Việt Nam

          Thời gian qua, một số tổ chức và cá nhân thiếu thiện chí như Tổ chức Vận động cho Đức tin và Công lý tại Việt Nam (AFJV), Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) hay các phần tử cực đoan lưu vong đã liên tục đưa ra các cáo buộc vô căn cứ về việc Việt Nam hình sự hóa hoạt động tôn giáo; ngăn chặn tụ tập tôn giáo; xâm phạm tài sản tôn giáo; cưỡng ép từ bỏ tôn giáo; từ chối đơn đăng ký tổ chức tôn giáo là pháp nhân, v.v. Đây là những cáo buộc mang tính suy diễn, một chiều, bóp méo sự thật nhằm can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, cần được đấu tranh, bác bỏ trên cơ sở khoa học và thực tiễn.

1. Việt Nam luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với pháp luật quốc tế

Điều 18, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) mà Việt Nam là thành viên từ năm 1982 khẳng định quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Hiến pháp 2013 của Việt Nam cũng quy định rõ tại Điều 24: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”.

Trên thực tế, Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo, với hơn 26 triệu tín đồ thuộc 16 tôn giáo và trên 43 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp phép hoạt động. Các hoạt động tôn giáo diễn ra phong phú, đa dạng, từ lễ hội, nghi lễ tôn giáo đến các hoạt động từ thiện, nhân đạo, đều được tôn trọng và tạo điều kiện thực hiện theo quy định của pháp luật. Việt Nam luôn nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người, trong đó có tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Việt Nam đã tham gia và thực hiện báo cáo định kỳ trước các cơ chế của Liên hợp quốc như: UPR, ICCPR,… và chủ động đối thoại với các tổ chức quốc tế trên tinh thần xây dựng, minh bạch.

2. Nhận diện và phản bác các luận điệu vu cáo về tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam

Một là, luận điệu “Hình sự hóa hoạt động tôn giáo” là hoàn toàn sai lệch. Nhà nước Việt Nam chỉ xử lý những hành vi lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật như: Kích động bạo lực, tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự xã hội, chứ không bao giờ xử lý đơn thuần vì lý do tôn giáo. Trường hợp linh mục Đặng Hữu Nam mà AFJV đề cập không liên quan đến quyền tự do tôn giáo mà xuất phát từ việc ông này có các hoạt động lợi dụng tôn giáo để xuyên tạc sự kiện Formosa, kích động biểu tình, gây rối trật tự. Hơn nữa, chính Giám mục Nguyễn Hữu Long - người có đầy đủ thẩm quyền trong Giáo hội Công giáo tại Việt Nam đã áp dụng các biện pháp quản lý đối với linh mục Nam hoàn toàn theo nội bộ giáo luật Công giáo, không phải là sự can thiệp của chính quyền.

Hai là, luận điệu “Ngăn chặn tụ tập tôn giáo” là sự bóp méo bản chất. Việt Nam tạo điều kiện cho các hoạt động tụ tập tôn giáo hợp pháp. Việc kiểm soát một số hoạt động tụ tập trái phép, không tuân thủ quy định là nhằm bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, điều mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đều áp dụng. Không thể nhân danh tôn giáo để bao biện cho các hành vi lợi dụng tụ tập gây rối, phá hoại như những gì xảy ra tại Nghệ An giai đoạn sau sự cố môi trường biển miền Trung.

Ba là, luận điệu “Xâm phạm tài sản tổ chức tôn giáo” là cáo buộc vô căn cứ. Thực tế, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo hộ tài sản hợp pháp của các tổ chức tôn giáo. Nhiều cơ sở tôn giáo được sửa chữa, xây dựng mới với sự hỗ trợ từ chính quyền các cấp. Nếu có mâu thuẫn liên quan đến đất đai, tài sản, đều được giải quyết theo pháp luật chung, không có sự phân biệt đối xử tôn giáo.

Bốn là, luận điệu “Cưỡng ép từ bỏ tôn giáo” là hoàn toàn bịa đặt. Không có chính sách, văn bản nào của Nhà nước Việt Nam quy định hoặc khuyến khích việc cưỡng ép từ bỏ tôn giáo. Đây là thủ đoạn tuyên truyền nhằm hạ thấp hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.

Năm là, luận điệu “Từ chối đơn xin đăng ký tổ chức tôn giáo là pháp nhân” là vu cáo trắng trợn. Việc đăng ký tổ chức tôn giáo tại Việt Nam được thực hiện theo quy định chặt chẽ, minh bạch nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tôn giáo, tránh bị lợi dụng để hoạt động trái pháp luật. Những trường hợp không được cấp phép thường do không đáp ứng đủ điều kiện về pháp lý, nhân sự, cơ cấu tổ chức hoặc có dấu hiệu hoạt động trái pháp luật, chứ không phải vì lý do kỳ thị tôn giáo.

Tóm lại, AFJV được thành lập tại Mỹ, hoạt động dưới danh nghĩa “bảo vệ công lý”, nhưng thực chất là công cụ chính trị nhằm xuyên tạc tình hình tôn giáo tại Việt Nam. USCIRF - tổ chức liên tục đưa Việt Nam vào danh sách “các quốc gia cần quan tâm đặc biệt” (CPC) về tự do tôn giáo - cũng đã nhiều lần bị các chuyên gia quốc tế và ngay cả nội bộ Mỹ chỉ trích về sự thiên lệch, thiếu khách quan, sử dụng tiêu chí kép để gây sức ép chính trị. Những cáo buộc cho rằng Việt Nam “đàn áp tự do tôn giáo, tín ngưỡng” là thiếu căn cứ, bóp méo bản chất sự việc, phục vụ ý đồ chính trị của một số tổ chức, cá nhân cực đoan. Việt Nam kiên quyết phản bác các luận điệu sai trái này, đồng thời khẳng định cam kết tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân hoạt động tôn giáo hợp pháp, đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)