Nov 23, 2024

Các “nhà dân chủ” lại diễn “hề”

          Tre Việt – Ngày 21/11, trang facebook VOA Tiếng Việt (VOA) có bài “VNHRN trao giải nhân quyền cho 3 người “đấu tranh trong tù” vì dân chủ ở Việt Nam” đăng thông tin: “các tù nhân lương tâm Bùi Văn Thuận, Đặng Đăng Phước và Đỗ Nam Trung vừa được Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam chọn để trao giải thưởng Nhân quyền Việt Nam năm 2024 vì công cuộc đấu tranh trong tù và sự khi sinh của họ để Việt Nam sớm có dân chủ” (!).

Đây là chiêu trò lố bịch, kệch cỡm quen thuộc mà các “nhà dân chủ” vẫn thường sử dụng, khi núp bóng “giải thưởng nhân quyền” để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Nhìn vào những cá nhân, tổ chức được họ “trao giải thưởng”, chắc hẳn chúng ta đều không khó để nhận thấy đây đều là những phần tử núp dưới danh nghĩa “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam; họ là những người đang phải chịu án phạt tù do vi phạm pháp luật của Việt Nam.

Với trường hợp Đỗ Nam Trung, (sinh năm 1979, có hộ khẩu tại Đội 1, xã Nghĩa Lâm, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định; ngụ số 6, ngách 4, ngõ Thịnh Hào 2, đường Tôn Đức Thắng, phường Hàng Bột, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội), người mà trước đó đã có 02 tiền án; trong đó, năm 2015, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 14 tháng tù giam về tội “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Ngày 16/12/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định mở phiên xét xử sơ thẩm, tuyên phạt bị cáo Đỗ Nam Trung mức án 10 năm tù giam và phạt bổ sung 04 năm quản chế sau khi mãn hạn tù về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điểm a, Khoản 1, Điều 117 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Theo cáo trạng, từ năm 2016 đến tháng 7/2021, Đỗ Nam Trung đã có hành vi đăng tải 06 video có nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phỉ báng chính quyền nhân dân, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân. Hành vi của Đỗ Nam Trung đã đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân tộc, chạy theo những lời kêu gọi, cổ súy của các tổ chức phản động, thế lực thù địch nhằm tạo ra sự bất ổn về chính trị tại Việt Nam, gây chia rẽ mối đoàn kết dân tộc, làm giảm lòng tin của nhân dân với chính quyền.

Về trường hợp của Bùi Văn Thuận, (sinh năm 1981, quê quán: xã Bảo Hiệu, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình; đăng ký thường trú tại phường Mai Lâm, thị xã Nghi Sơn tỉnh Thanh Hóa) đây là kẻ đã dùng tài khoản facebook của mình đăng tải những thông tin, bài viết, hình ảnh có nội dung xâm phạm an ninh quốc gia; xuyên tạc, suy luận vô căn cứ về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Từ năm 2016 đến tháng 8/2021, Bùi Văn Thuận là người tạo lập, quản trị và sử dụng tài khoản facebook “Thuan Van Bui (Cha già Dân tộc)” để đăng tải, chia sẻ, phát tán nhiều bài viết có nội dung xúc phạm uy tín, danh dự của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, địa phương; xuyên tạc, bịa đặt, suy luận vô căn cứ về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; tuyên truyền, kích động chống phá, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa tuyên phạt Y 08 năm tù giam và áp dụng hình phạt bổ sung quản chế trong thời hạn 05 năm, tước quyền công dân, quyền ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước thời hạn 05 năm kể từ ngày bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

Còn đối tượng Đặng Đăng Phước, (sinh năm 1963; trú tại số nhà 19/6 đường Giải Phóng, tổ dân phố 7A, phường Tân Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk), kẻ đã bị tuyên phạt 08 năm tù về tội “Làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, theo điểm a, b, c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, trong khoảng thời gian từ năm 2019 đến ngày 10/8/2022, Đặng Đăng Phước đã có hành vi viết, tải từ mạng internet các bài viết có nội dung không khách quan; không đúng sự thật; vu khống, xúc phạm, bôi nhọ uy tín, danh dự Nhà nước; phỉ báng chính quyền nhân dân; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; gây chiến tranh tâm lý; lợi dụng tự do ngôn luận để xuyên tạc, nói xấu chính quyền, gây kích động, hoang mang trong nhân dân, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Sau đó, Phước đăng tải các bài viết này lên trang facebook cá nhân “Đặng Phước”, trang fanpage được hiển thị ở chế độ công khai (có một số bài viết được Phước gắn tên các tài khoản facebook khác). Ngoài ra Phước sử dụng Email của mình để gửi các bài viết có nội dung nêu trên đến các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Mặt khác, Phước còn trực tiếp hát và đánh đàn cho người khác hát những bài hát có nội dung không đúng sự thật, phỉ báng chính quyền nhân dân; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, gây chiến tranh tâm lý nhằm mục đích chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo Đặng Đăng Phước 08 năm tù về tội “Làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Ngoài ra, Tòa án còn tuyên phạt quản chế bị cáo Phước 04 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

Điểm “chiến tích” 03 “gương mặt” chống phá Đảng, Nhà nước để thấy rõ cái mà Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam diễn “trò”, tung hô bằng cách trao “Giải thưởng Nhân quyền Việt Nam năm 2024” đều là những thành phần bất hảo, đã có những hoạt động chống phá chính quyền nhân dân, phỉ báng chế độ, bôi nhọ Đảng và Nhà nước Việt Nam trong nhiều năm qua. Những đối tượng trên chẳng hề có đóng góp gì cho sự phát triển của dân chủ, nhân quyền của đất nước. Thậm chí, cần phải chỉ thẳng rằng: đây là những đối tượng đang dẫm đạp lên nền dân chủ, nhân quyền của nhân dân Việt Nam; đang xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của quốc gia, dân tộc; đi ngược lại sự phát triển của cộng đồng. Vậy, hà cớ gì những người này lại được nhận giải thưởng về “nhân quyền”?. Điều đó khẳng định, cái gọi là “Giải thưởng Nhân quyền Việt Nam năm 2024” không có giá trị mà chỉ là “trò hề” của các “nhà dân chủ”./.


Nov 19, 2024

Chân Trời Mới Media “có tật giật mình”

           Tre Việt - Ngày 16/11, trang facebook Chân Trời Mới Media, đăng status “Chính phủ Cộng sản Việt Nam vừa ban hành Nghị định 147/2024/NĐ-CP (ngày 9/11), một nghị định vi Hiến, bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận”. Đây là luận điệu hết sức lố bịch, chiêu trò quen thuộc mà các tổ chức, cá nhân chống đối với Đảng, Nhà nước thường lợi dụng, nhằm mục đích xuyên tạc, kích động mỗi khi Đảng, Nhà nước ta ban hành các chỉ thị, nghị quyết, văn bản quy phạm để lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước trên tất cả các lĩnh vực.

Như thông tin đã biết, ngày 09/11/2024, Phó Thủ tướng Chính phủ, Hồ Đức Phớc đã ký ban hành Nghị định số 147/2024/NĐ-CP “Về quản lý, cung cấp, sử dụng internet và thông tin trên mạng”. Đây là Nghị định áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp tham gia hoặc có liên quan đến việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet, thông tin trên mạng.

Nghị định số 147 bao gồm nhiều quy định mới; trong đó, có việc quản lý cung cấp thông tin xuyên biên giới, xác thực tài khoản người dùng internet, giám sát thông tin và ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin vi phạm pháp luật trên mạng. Nghị định cũng chỉ rõ, chỉ những tài khoản đã xác thực mới được đăng tải thông tin (viết bài, bình luận, livestream) và chia sẻ thông tin trên mạng xã hội. Do vậy, khi ra đời, Nghị định đã thu hút sự quan tâm chú ý đặc biệt của đông đảo người dùng internet và mạng xã hội tại Việt Nam. 

Theo các chuyên gia, sự ra đời của Nghị định số 147 sẽ có tác động lớn tới việc nâng cao nhận thức cá nhân của người dùng internet, giảm thiểu thông tin sai lệch và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cộng đồng và trật tự xã hội. Khi tài khoản được gắn với thông tin xác thực, người dùng sẽ cẩn trọng hơn trong việc chia sẻ và bình luận, vì họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và cộng đồng về những gì họ công bố trên mạng. Yêu cầu xác thực cũng giúp hạn chế các tài khoản ẩn danh hoặc giả mạo. Đây thường là nguồn gốc của thông tin sai lệch, tin giả và các nội dung xấu độc. Người dùng phải ý thức rõ hơn về hậu quả của việc chia sẻ các thông tin thiếu chính xác, từ đó góp phần tạo nên không gian mạng lành mạnh hơn.

Một trong những điểm đáng chú ý là quy định xác thực tài khoản người dùng mạng xã hội. Theo đó, người sử dụng bắt buộc phải cung cấp đầy đủ thông tin cá nhân để đăng bài, bình luận, hay livestream. Quy định này sẽ giúp tăng tính minh bạch, hạn chế các thông tin sai lệch, giả mạo, từ đó góp phần ngăn chặn các chiêu trò lừa đảo trực tuyến. Người dùng tham gia mạng xã hội với danh tính thực sẽ có ý thức trách nhiệm cao hơn khi đăng tải, thảo luận hay chia sẻ nội dung. Cũng vì thế, quy định này sẽ giúp tạo ra môi trường mạng an toàn hơn.

Đối với cộng đồng và trật tự xã hội, việc xác thực tài khoản không chỉ bảo vệ cá nhân mà còn giúp các cơ quan quản lý dễ dàng hơn trong việc ngăn chặn và xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật trên mạng. Điều này đặc biệt quan trọng với các nội dung độc hại, như: bạo lực, kích động, lừa đảo hay những nội dung xâm phạm lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác. Mặt khác, việc xác thực tài khoản mạng xã hội là một trong những giải pháp rất quan trọng để ngăn chặn tội phạm lừa đảo trực tuyến. Quy định này cũng góp phần chống lại nhận thức sai lầm của nhiều người dùng internet, đó là coi không gian mạng là không gian ảo, và vì ảo nên lên mạng có thể nói, làm bất cứ điều gì, thậm chí là vi phạm pháp luật.

          Như vậy, quy định xác thực tài khoản buộc người dùng internet cẩn trọng với phát ngôn trên mạng, khiến mạng xã hội không còn ẩn danh, buộc người dùng internet phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và cộng đồng về những gì công bố trên mạng. Điều đó hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam, chỉ có những tổ chức, cá nhân chuyên lợi dụng internet, mạng xã hội để xuyên tạc, chống phá “có tật giật mình” mới suy nghĩ thiển cận, quy chụp rằng: Nghị định số 147 là “vi Hiến”“bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận”. Mỗi người dân Việt Nam nhất là người dùng internet, mạng xã hội cần tỉnh táo, kiên quyết lên án, đấu tranh, bác bỏ luận điệu mà Chân Trời Mới Media rêu rao, kích động./.

Nov 14, 2024

Đừng mượn trò “đóng góp” để chống phá

           Tre Việt – Thời gian qua, các đối tượng cơ hội, bất mãn đã lợi dụng danh nghĩa “đóng góp cho Đảng, Nhà nước” để đưa ra các luận điệu xuyên tạc, chống phá thể chế, cho rằng: Việt Nam muốn phát triển, bắt kịp được xu thế phát triển của thế giới, cần “xây dựng một bộ máy nhà nước hiện đại, phi đảng phái và phi chính trị là con đường duy nhất để Việt Nam có thể trở thành một hình mẫu phát triển bền vững và thịnh vượng trong khu vực Đông Nam Á”. Đây chính là chiêu trò núp bóng sự“đóng góp” để chống phá, cần phải vạch trần, đấu tranh bác bỏ. Bởi vì:

Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp, là công cụ chuyên chính giai cấp, với các chức năng quản lý xã hội vừa bảo vệ lợi ích giai cấp mà nó đại diện, vừa duy trì trật tự, đảm bảo cho xã hội phát triển và phục vụ những nhu cầu thiết yếu của đời sống cộng đồng. Mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với nhà nước ra đời từ các nước phương Tây, từng bước được đưa vào hiến pháp và pháp luật để điều chỉnh. Dù ở bất kỳ quốc gia nào, nếu các đảng chính trị muốn trở thành đảng cầm quyền thì phải thuyết phục và được sự ủng hộ của đa số quần chúng; phải tiến hành thông qua cuộc bầu cử. Đặc biệt, bản chất của một nền dân chủ không phụ thuộc vào chế độ đa đảng hay chế độ một đảng, mà phụ thuộc vào việc đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà nước vào những mục đích gì. Đồng thời, sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia cũng không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay nhiều đảng, mà phụ thuộc vào tính khoa học, sáng tạo của đường lối phát triển đất nước và năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền, năng lực điều hành của nhà nước; vào hiệu quả xử lý trên thực tế mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước.

Đối với Việt Nam, trong Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã ghi rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Cũng theo Hiến pháp 2013, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thực tiễn cho thấy: kể từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa  ra đời (tháng 9/1945) đến nay luôn khẳng định, phát huy vai trò của mình trong đời sống xã hội, trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay.

Trên thực tế, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Đảng, Nhà nước ta luôn chủ động, tích cực cải cách, đổi mới, tinh gọn bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đặc biệt, đồng chí Tổng Bí thư đã có ý kiến chỉ đạo qua các bài nói, bài viết để các cơ quan chức năng quán triệt, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Nhìn ra thế giới, hầu hết bộ máy nhà nước của các quốc gia đều do các đảng phái chính trị giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử lập ra để điều hành đất nước cũng như phục vụ lợi ích của đảng phái cầm quyền đó. Hầu như không có quốc gia nào mà bộ máy nhà nước phi đảng phái, phi chính trị cả. Đơn cử như nước Mỹ - cường quốc của thế giới thì bộ máy nhà nước của họ chủ yếu do hai đảng là Cộng hòa và Dân chủ thay nhau nắm quyền, thành lập và điều hành hoạt động chứ đâu phải bộ máy nhà nước của Mỹ là phi đảng phái và phi chính trị.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn cho thấy sự “đóng góp” cần: xây dựng một bộ máy nhà nước hiện đại, phi đảng phái và phi chính trị của các đối tượng cơ hội, bất mãn là phản khoa học, phi thực tiễn. Đây thực chất là âm mưu nham hiểm, thâm độc nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Vì vậy, chúng ta cần hết sức cảnh giác để nhận diện, vạch trần, đấu tranh bác bỏ./. 


Nov 11, 2024

Phản bác luận điệu xuyên tạc, kích động của Việt Tân

        Tre Việt – Ngày 10/11, trang facebook Việt Tân có status: “Từ xưa đến giờ, tất cả các quốc gia tây phương là vậy. Ngoại trừ những quốc gia độc tài”, xuyên tạc, kích động rằng: “Quân đội chỉ trung thành với Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc; chứ không trung thành, bảo vệ bất cứ đảng phải, tổ chức nào”.

Đây là luận điệu xuyên tạc nhằm phủ nhận bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, nhất là sự trung thành tuyệt đối của Quân đội ta với Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Chúng không những xuyên tạc phẩm chất trung thành của Quân đội, mà còn tách rời, đối lập một cách vô lối các nội dung trong phẩm chất trung thành của Quân đội và các mối quan hệ của Quân đội với Đảng, Tổ quốc, dân tộc và nhân dân. Với thủ đoạn đó, Việt Tân đã khéo léo che giấu mưu đồ nhằm loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội, xóa nhòa bản chất chính trị - giai cấp của Quân đội, tiến tới làm biến chất Quân đội ta; làm cho Quân đội mất phương hướng và mục tiêu chiến đấu; sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội bị vô hiệu hóa, Đảng không thể nắm được, không thể “điều khiển” được Quân đội, đặc biệt trong những tình huống phức tạp; làm cho Quân đội ngả theo các thế lực phản cách mạng, chống lại Đảng và chế độ.

Cần khẳng định rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức, lãnh đạo Quân đội và Quân đội phục tùng sự lãnh đạo của Đảng là hai mệnh đề song hành ngay từ khi mới thành lập đến nay suốt gần tám thập kỷ xây dựng, trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta. Mục tiêu lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, của dân tộc cũng là mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta. Nói cách khác, Quân đội ta chiến đấu là nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, của dân tộc và nhân dân Việt Nam, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của cách mạng, của dân tộc trong từng giai đoạn. Đó là sự biểu hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội ta, một tổ chức quân sự kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.

Lịch sử đã chứng minh, Quân đội ta không chỉ là công cụ, lực lượng chính trị tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà nước mà còn là của nhân dân, của dân tộc, chiến đấu cho lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn và triệt để quần chúng nhân dân lao động, phấn đấu không mệt mỏi cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Quân đội ta sẵn sàng hy sinh phục vụ lợi ích của dân tộc, của giai cấp và của nhân dân Việt Nam; bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ nhân dân, bảo vệ lợi ích và cuộc sống an bình của nhân dân.

Quân đội nhân dân Việt Nam là của dân tộc, của nhân dân Việt Nam, đồng thời là của giai cấp công nhân Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Việc từ bỏ nội dung phẩm chất trung thành với Đảng, tách vấn đề trung thành với Đảng và trung thành với nhân dân, với dân tộc là không thể chấp nhận được vì nó không đúng với bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là thủ đoạn hết sức nham hiểm, cố tình xuyên tạc, bóp méo sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, cũng như thực tiễn mối quan hệ giữa Quân đội với Đảng, với Tổ quốc, với dân tộc và nhân dân, nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, chống phá cách mạng Việt Nam. Luận điệu xuyên tạc này chẳng lừa bịp được ai, cần bị vạch mặt, lên án, đấu tranh, bác bỏ./.

 

 

Vạch mặt mưu đồ của những kẻ “gia cát dự”

          Tre Việt - Như đã biết, tại Hội nghị lần thứ mười (khóa XIII), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thống nhất chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam và hiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đang được Bộ Giao thông vận tải hoàn tất, chuẩn bị trình tự, hồ sơ thủ tục để trình Quốc hội xem xét cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV. Những vấn đề này đều được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. Song, lợi dụng vấn đề này, một số kẻ thi nhau trổ tài “gia cát dự”; trong đó đáng chú ý, chúng cho rằng: “nếu giao toàn bộ việc thiết kế và xây dựng đường sắt Bắc Nam cho Trung Quốc, thì đó là trao “nỏ thần” cho “đối tượng”. Đây là luận điệu sai trái, xuyên tạc mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

          Cần khẳng định rõ: Dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam đã được bắt đầu nghiên cứu từ năm 2006, đến năm 2010 được trình ra Quốc hội, nhưng Quốc hội chưa quyết định. Đến nay là 14 năm (kể từ khi được nghiên cứu, đề xuất), chúng ta đã có đầy đủ các yếu tố để triển khai Dự án quan trọng này. Bởi, thực tiễn đất nước và trên thế giới cho thấy, sự phát triển của giao thông vận tải đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội. Để đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt giữa hai miền Bắc, Nam, việc xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam là rất cần thiết, góp phần rút ngắn thời gian di chuyển giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; giảm tải hệ thống giao thông đường bộ vốn đang quá tải hiện nay; thúc đẩy phát triển kinh tế các vùng, tạo cơ hội cho các địa phương thu hút đầu tư, du lịch; tăng cường kết nối và hội nhập về kinh tế – xã hội giữa các vùng miền đất nước; từng bước hiện đại hóa cơ sở hạ tầng giao thông quốc gia, tạo tiền đề cho phát triển bền vững.

          Đây là Dự án có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển đất nước, nhưng còn phải chờ Quốc hội đánh giá, quyết định. Yêu cầu đặt ra, cần chú ý đến khâu tổ chức thực hiện, lựa chọn nhà thầu và giám sát của các cơ quan liên quan. Và, các nhà thầu có năng lực thực sự và đủ uy tín đều được tham gia đấu thầu thực hiện dự án trong đó có các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài. Được biết, cho đến hiện nay, vẫn chưa có bất kỳ thỏa thuận hay quyết định nào liên quan đến việc lựa chọn nhà thầu. Vì vậy việc: chỉ vì có thông tin nhà thầu Trung Quốc muốn tham gia đầu tư vào Dự án này mà các nhà “gia cát dự” đã thi nhau nổ, vội vàng phản đối và xuyên tạc rằng: “nếu giao toàn bộ việc thiết kế và xây dựng đường sắt Bắc Nam cho Trung Quốc, thì đó là trao “nỏ thần” cho “đối tượng” là không đúng sự thật. Tre Việt xin nêu một ví dụ để các nhà “gia cát dự” biết: Dự án này có rất nhiều nước quan tâm theo dõi và mong muốn tham gia đấu thầu xây dựng. Gần đây nhất, sáng 9/11/2024, tại lễ vận hành thương mại đoạn trên cao tuyến đường sắt đô thị số 3 Nhổn - ga Hà Nội đã diễn ra tại ga S8 (ga Cầu Giấy), với sự tham dự của lãnh đạo Hà Nội cùng một số bộ, ngành. Bên lề buổi lễ, Đại sứ Pháp tại Việt Nam Olivier Brochet nhận được nhiều câu hỏi từ báo chí về sự quan tâm của Pháp đối với Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Trả lời về vấn đề này, ông Brochet nhắc lại việc trong chuyến thăm Pháp gần đây của Tổng Bí thư Tô Lâm, Việt Nam và Pháp đã trở thành Đối tác chiến lược toàn diện. Trong đó, vấn đề phát triển bền vững, bao gồm phát triển giao thông bền vững, là một trong những ưu tiên. Chúng tôi đặc biệt quan tâm, theo dõi rất sát sao Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam mà Quốc hội Việt Nam đang xem xét về chủ trương đầu tư. Trên cơ sở quyết định đó, chúng tôi sẽ xem xét Pháp có thể đáp ứng theo cách tốt nhất như thế nào cho Dự án.

          Như vậy, việc các nhà “gia cát dự” đưa ra luận điệu: “nếu giao toàn bộ việc thiết kế và xây dựng đường sắt Bắc Nam cho Trung Quốc, thì đó là trao “nỏ thần” cho “đối tượng” là sự hồ đồ, quy chụp. Rõ ràng, đây là luận điệu sai trái, hòng kích động mọi người hình thành tâm lý bài xích Trung Quốc, chia rẽ mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc; đồng thời phá hoại các dự án phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; gây nghi kỵ, mâu thuẫn giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Vì thế, chúng ta cần nêu cao tinh thần cảnh giác, tỉnh táo, sàng lọc thông tin và tích cực đấu tranh với các luận điệu sai trái này./.

Nov 8, 2024

Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”

             Bài 2: Những điều căn cốt, thời sự

Như đã luận giải ở bài viết trước, trong các nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô thì xét đến cùng là do nguyên nhân chủ quan quyết định. Sự sụp đổ đó là của mô hình cụ thể, chứ tuyệt nhiên không phải sự sụp đổ hay cáo chung của chủ nghĩa xã hội (CNXH) như thế lực thù địch, phản động thường xuyên tạc. Nhận diện đầy đủ và đúng bản chất vấn đề này là những điều có ý nghĩa căn cốt và thời sự với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng của Việt Nam hiện nay.

Lễ mít tinh kỷ niệm 106 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại
 tại Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moskva (Ngày 07/11/2023). Ảnh: nhandan.vn

Trong bài viết với tiêu đề “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 1992, GS, TS Nguyễn Phú Trọng (từ năm 2011 đến tháng 7-2024 là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã chỉ ra nguyên nhân có ý nghĩa quyết định làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô là quá trình “vận động” của chính đảng này. Về sau, Đảng ta khái quát quá trình “vận động” này và gọi đó là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được thể hiện trên nhiều bình diện.

Theo GS, TS Nguyễn Phú Trọng, có 3 biểu hiện của sự “vận động” đó. Một là, không xác lập đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Hai là, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Ba là, coi nhẹ hoặc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng sản. Bốn là, xa rời quần chúng, mất uy tín nghiêm trọng trước nhân dân, không được nhân dân ủng hộ. Năm là, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thổi lên ngọn lửa kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi.

Từ thực tiễn và lý luận cơ bản được Đảng ta tổng kết trong nhiều văn kiện, chúng ta có thể rút ra những bài học lớn với Việt Nam từ quá trình “tự diễn biến” trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô dẫn tới hậu quả tan rã Liên bang Xô viết-cường quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu tiên trên thế giới, như sau:

Thứ nhất, Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”. Từ khẳng định này, Đảng ta kiên định và quyết tâm đưa Việt Nam tiếp tục phát triển đi lên CNXH trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Với quyết tâm chính trị đó, Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng ta đã thông qua đường lối đổi mới đất nước. Tiếp đến, Đại hội lần thứ VII (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, thể hiện lập trường kiên định của Đảng ta về mục tiêu và định hướng phát triển đi lên CNXH ở Việt Nam. Đường lối đổi mới của Đảng ta được thông qua tại Đại hội lần thứ VI trên cơ sở kế thừa sáng tạo Chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin với nội dung cốt lõi là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thành công của gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Việt Nam kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng chứng tỏ giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười, mở ra kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) phát triển đi lên CNXH.

Thứ hai, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Ở Liên Xô, trong giai đoạn “cải tổ” đã đồng nhất việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường với việc xóa bỏ chế độ XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Còn Đảng ta vận dụng chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin để phát triển kinh tế thị trường nhằm giải phóng nguồn lực và phát triển sức sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đảng ta cho rằng, việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học và phát triển, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Trên cơ sở đó, Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng ở Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Ba là, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, coi đó là yếu tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng ta về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã xác định rõ, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng ở nước ta. Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam đã được xác định tại Điều 4, Hiến pháp năm 2013.

Bốn là, kiên quyết và kiên trì đấu tranh nhằm ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kết hợp với việc cảnh giác và làm thất bại âm mưu“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Rút kinh nghiệm từ tác động phá hoại hết sức nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch kết hợp với quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Đảng ta đặc biệt chú ý đấu tranh ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã sớm cảnh báo hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời. Từ giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta tiếp tục cảnh báo tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển, là hiểm họa đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ XHCN. Với quyết tâm chính trị cao và các giải pháp đồng bộ, Đảng ta đã bước đầu ngăn chặn được hiểm họa này.

Tổng kết thành tựu và kinh nghiệm 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 30-10-2016, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nghị quyết đã chỉ rõ nguyên nhân, biểu hiện và biện pháp phòng, chống hiểm họa này. 

Trong số các nguyên nhân, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ nguyên nhân khách quan do tác động từ khủng hoảng của CNXH trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị trường; tác động tiêu cực từ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường XHCN trong bối cảnh quốc tế hiện nay; các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”.

Trong số các nguyên nhân chủ quan, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả; một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát thực tiễn; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu; cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở; chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ; việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm; chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng; việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái, “tự diễn biến’, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.

Nghị quyết số 04-NQ/TW đã chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết xác định phải thực hiện nghiêm các yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được đề ra tại Đại hội XII với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.

Đến nay, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã đạt nhiều kết quả rất quan trọng, góp phần đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới với khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng cùng những mục tiêu lớn lao vào thời điểm trọng đại kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (2030) và 100 năm thành lập nước (2045), xây dựng thành công nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Với thành tựu trong công cuộc đổi mới và từng bước đạt được các mục tiêu cao cả, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định giá trị bất biến của Cách mạng Tháng Mười là mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên toàn thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo./.

(nguồn: https://www.qdnd.vn/)

 

Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”

            Bài 1: “Mặt trời chói lọi” và quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của Đảng Cộng sản Liên Xô

Trong những năm “cải tổ” ở Liên Xô (1985-1991) lan truyền luận điệu Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, do đó cần xóa bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) để “sửa chữa sai lầm lịch sử” đó!?

Luận điệu này là một trong những biểu hiện tập trung của quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế lịch sử chứng minh Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”.

Các thành viên Đảng Cộng sản Nga tại lễ kỷ niệm 100 năm
 Cách mạng Tháng 10 Nga ở thủ đô Moskva. (Ảnh: TTXVN) 

Nhân kỷ niệm 107 năm Ngày Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1917 / 7-11-2024), chúng ta cùng nhìn lại vai trò, ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng vĩ đại và nguyên nhân nội tại, có ý nghĩa quyết định dẫn tới sự tan rã Liên Xô, những bài học vẫn nguyên tính thời sự đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam hiện nay.

Hơn 30 năm kể từ khi Liên Xô - cường quốc XHCN đầu tiên trên thế giới sụp đổ, đã có hàng nghìn công trình nghiên cứu, chuyên khảo, hồi ký, chuyên luận và điều tra đi tìm lời giải về thảm họa địa-chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20 này. Tựu trung trong nhiều nghiên cứu chỉ ra, một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn tới thảm họa này là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng Cộng sản Liên Xô.

Cuộc cách mạng mở đầu một thời đại mới

Nói về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Không thể phủ nhận sự thật lịch sử là nhà nước Xô viết ra đời từ cuộc Cách mạng Tháng Mười đã đạt được những thành tựu kỳ vĩ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Đảng Cộng sản Liên Xô có lịch sử vô cùng oanh liệt và vẻ vang.

Được V.I.Lênin sáng lập và rèn luyện, Đảng đã từng là một trong những đảng mác-xít, lê-nin-nít hùng mạnh nhất và kiên cường nhất. Đảng đã từng lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, đánh thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng của CNXH, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử nhân loại. Đó thật sự là những công việc kinh thiên động địa, những sự tích thần kỳ, được cả loài người tiến bộ cảm phục và kính trọng”. 

Cách mạng Tháng Mười như một cơn địa chấn của thế kỷ 20, không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới đối với nước Nga mà còn cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân các nước, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ cũ, xây dựng chế độ mới tốt đẹp hơn. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và tiếp đó là thắng lợi của nhân dân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, CNXH từ một nước đã phát triển thành một hệ thống XHCN thế giới đầy sức sống và hùng mạnh, có vai trò to lớn và từng có tính chất quyết định đến vận mệnh, sự phát triển của thế giới.

Hệ thống XHCN, đứng đầu là Liên Xô đã có những giai đoạn phát triển rực rỡ, đã đoàn kết các dân tộc, mọi tầng lớp nhân dân chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp, bình đẳng, công bằng, mang lại hạnh phúc cho đông đảo nhân dân lao động. Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười và sự giúp đỡ, tác động của hệ thống XHCN thế giới, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 70 của thế kỷ 20, hàng loạt dân tộc thuộc địa và lệ thuộc đã đứng lên giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân.

Cho nên có thể nói, Cách mạng Tháng Mười Nga mang tầm ảnh hưởng quốc tế to lớn, tính thời đại sâu sắc, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. 

“Cải tổ 1.0, 2.0” và hành trình dẫn đến tan rã Liên Xô

Liên Xô sụp đổ là thảm họa địa-chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20. Nhiều kẻ cơ hội, phản động được thể xuyên tạc những giá trị lịch sử của nhà nước xã hội đầu tiên trên thế giới được mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Từ việc coi Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, họ phủ nhận những giá trị nhân văn, tốt đẹp của CNXH, đánh đồng sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu với sự thất bại của Chủ nghĩa Mác-Lênin và rêu rao cuộc cách mạng đó là “đẻ non”, “đã chết” và CNXH đã đến “hồi kết thúc”... Tuy nhiên, từ thực tiễn, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để bác bỏ những luận điệu trên. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu là sụp đổ của mô hình cụ thể chứ không phải sụp đổ hay cáo chung của Chủ nghĩa Mác-Lênin, của CNXH như các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao, xuyên tạc. Ở khía cạnh cụ thể trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin luận giải một số nguyên nhân nội tại của quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có ý nghĩa quyết định đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô tới chỗ tan rã và cường quốc XHCN sụp đổ.

Sai lầm về đường lối chính trị

Ngay sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin từng cảnh báo: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền khó hơn”. Vì thế, V.I.Lênin luôn yêu cầu phải kiên quyết và kịp thời đấu tranh ngăn chặn mọi biểu hiện suy thoái về chính trị trong Đảng. Trong những năm dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin và J.Stalin, Đảng Cộng sản Liên Xô đã tiến hành hiệu quả cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên, sau khi J.Stalin qua đời (1953), quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đường lối chính trị trong Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu bộc lộ biểu hiện rất nguy hiểm. 

Trong bản báo cáo mật bên lề Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô khóa XX (1956) đã có chủ trương “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận những thành tựu vĩ đại của Liên Xô trong những năm sau Cách mạng Tháng Mười và trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945). Nếu không được các đảng viên trung kiên trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngăn chặn, chủ trương này có thể đưa Liên Xô tới chỗ tan rã. Chính vì thế, giới nghiên cứu lịch sử ở Nga cho rằng chủ trương “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin là “cải tổ 1.0”, tuy chưa dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô nhưng đã để lại “di chứng” nặng nề và đã phát tác trong giai đoạn “cải tổ 2.0” thập niên 1980 được khởi xướng bởi M.Gorbachyov trên cương vị Tổng Bí thư và A.Yakovlev trên cương vị Trưởng ban Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Về sau, chính M.Gorbachyov và A.Yakovlev công khai thừa nhận mục tiêu hướng tới của “cải tổ” là xóa bỏ Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Liên Xô.

Sai lầm trong công tác cán bộ của Đảng

Đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô do V.I.Lênin đề xướng dựa trên các nguyên tắc kết hợp việc tuyển chọn cán bộ có đức, có tài với công tác kiểm tra quá trình thực hiện công tác của cán bộ. V.I.Lênin chủ trương “tin tưởng là tốt, nhưng kiểm tra vẫn tốt hơn”. Kiểm tra nhằm kịp thời cảnh báo và ngăn chặn quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. 

Các thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô sau này đã không tuân theo di huấn của Lênin, vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc trong công tác cán bộ của Đảng. Một là, nặng về hình thức trong đào tạo cán bộ theo kiểu “thầy đọc, trò chép và học thuộc lòng”. Vì thế, kiến thức lý luận về Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ nằm trên sách vở mà không được vận dụng vào thực tiễn. Nhiều cán bộ tuy được cấp bằng hoặc chứng chỉ nhưng năng lực lãnh đạo kém, không có khả năng dự phòng và bảo vệ, thậm chí vô cảm trước quá trình diệt vong của Đảng. Hai là, khi tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ thường xuất phát từ tình cảm cá nhân, yêu-ghét chủ quan, cố ý nâng đỡ những kẻ thân tín, bè phái. Ba là, công tác đánh giá cán bộ trở thành công cụ để thực hiện ý đồ của cá nhân người lãnh đạo chứ không nhằm mục đích chọn cán bộ tốt.

Vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng

V.I.Lênin là người đề ra nguyên tắc tập trung dân chủ để xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Theo nguyên tắc này, thiểu số phục tùng đa số, bộ phận phục tùng tập thể và các cơ quan lãnh đạo cấp dưới phục tùng cơ quan lãnh đạo cấp trên. V.I.Lênin cho rằng, nếu không có tập trung, Đảng sẽ trở thành một “câu lạc bộ” lộn xộn, còn nếu xa rời dân chủ, Đảng sẽ trở thành một tổ chức quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. V.I.Lênin đã nhiều lần cảnh báo sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ là hiểm họa đe dọa sự sống còn của Đảng và chế độ XHCN.

Các thế hệ lãnh đạo sau này, nhất là M.Gorbachyov đã xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, lạm dụng quyền lực để loại bỏ những cán bộ trung thành và kiên định với lý tưởng XHCN, bổ nhiệm những kẻ ủng hộ chủ trương “cải tổ” sai lầm của ông. Về sau, chính A.Yakovlev thừa nhận, M.Gorbachyov sử dụng “cơ chế toàn trị” để phá hoại Đảng Cộng sản Liên Xô.

Sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống

Sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống trong Đảng Cộng sản Liên Xô trở nên đặc biệt nghiêm trọng trong thời kỳ L.Brezhnev và M.Gorbachyov cầm quyền với những biểu hiện rất đa dạng như tham quyền cố vị; bệnh thành tích, thích được khen thưởng và hưởng lạc; giả dối; tham ô... Biểu hiện điển hình nhất về bệnh thành tích là L.Brezhnev. Tính tổng cộng, L.Brezhnev đã nhận 114 huân chương, trong đó có 8 Huân chương Lênin; 2 Huân chương Sao Đỏ, Huân chương Chiến thắng; 2 Huân chương Cách mạng Tháng Mười... Do không đáp ứng các tiêu chuẩn được nhận, những huân chương dành cho L.Brezhnev đã gây phản ứng rất tiêu cực trong xã hội, làm mất uy tín không chỉ trong mà cả ngoài Đảng.  

Trong Đảng hình thành tầng lớp đặc quyền, đặc lợi. Ở Liên Xô thời đó tồn tại hệ thống cửa hàng đặc biệt dành cho cá nhân và gia đình các thành viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng-nơi họ có thể mua bất cứ thứ hàng hóa xa xỉ nào được nhập khẩu từ phương Tây. Vì thế, nhân dân coi lãnh đạo cấp cao trong Đảng như là một “giai cấp mới” trong xã hội Xô viết, tạo hố ngăn cách ngày càng lớn giữa Đảng và nhân dân. Sự tha hóa, biến chất trong Đảng lên tới đỉnh điểm trong giai đoạn “cải tổ”, trong đó lợi dụng những khe hở của pháp luật trong quá trình tư nhân hóa, các tầng lớp đặc quyền, đặc lợi trong bộ máy lãnh đạo Đảng và quản lý nhà nước mặc sức tham nhũng, vơ vét của công, dẫn tới bước ngoặt căn bản là thúc đẩy quá trình tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xô viết./.

(nguồn: https://www.qdnd.vn/)

 

Nov 6, 2024

RFA diễn lại “trò lố”

          Tre Việt – Ngày 05/11, trang facebook của Đài Á Châu Tự Do (RFA) đăng Statuts: Người dân kêu gọi đổi mới lần hai để khai thông “điểm nghẽn thể chế”, lu loa rằng: “Bảy tổ chức xã hội dân sự trong nước và 32 cá nhân ngày 3/11 đồng ký thư kiến nghị gửi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chủ tịch nước và Thủ tướng, trong đó kêu gọi xây dựng một lộ trình Đổi mới lần thứ hai về chính trị sau Cải cách kinh tế năm 1986”.

Cần khẳng định ngay rằng: đây là luận điệu xuyên tạc hết sức lố bịch của RFA và các nhà “dân chủ” nhằm hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, gây tâm lý mơ hồ, hoài nghi và làm xói mòn niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cũng như công cuộc đổi mới đất nước ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó, kích động thay đổi thể chế chính trị ở nước ta, hướng lái cách mạng Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, mưu đồ đó sẽ không bao giao trở thành hiện thực, và nhất định sẽ bị phá sản. Bởi vì:

Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội dung cốt lõi, quan trọng trong quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, được Đảng ta nhất quán thực hiện trong công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay. Việc nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng ta. Không phải ngẫu nhiên mà mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong những mối quan hệ lớn mà các kỳ Đại hội XI, XII, XIII của Đảng luôn xác định cần nhận thức và giải quyết đúng đắn; trong đó, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có vị trí quan trọng hàng đầu. Bởi lẽ, kinh tế là nền tảng của đời sống xã hội, xét đến cùng quyết định các mặt còn lại của đời sống xã hội. Còn chính trị liên quan tới vấn đề lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; việc sử dụng quyền lực nhà nước; việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây là những vấn đề khó khăn, phức tạp và nhạy cảm liên quan tới vận mệnh quốc gia, dân tộc. Với tinh thần cẩn trọng trong đổi mới, đến Đại hội XII, Đảng ta đã có bước phát triển về nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị - đó là đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế và thể chế chính trị.

Trên cơ sở những thành tựu đạt được, xuất phát từ yêu cầu của bối cảnh mới, Đại hội XIII, Đảng ta xác định cần đưa quan hệ giữa đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế với thể chế chính trị lên một bước mới, đó là: xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trong đó có thể chế phát triển kinh tế và thể chế phát triển chính trị. Về đổi mới kinh tế, Đảng ta xác định nhiệm vụ trung tâm, quan trọng là: hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về chính trị, Đảng xác định: tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam.

Như vậy, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế, với đổi mới chính trị đã được Đảng ta nhận thức và giải quyết đồng bộ trên thực tế trong suốt quá trình lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới gần 40 năm qua. Trên cơ sở thành tựu của việc giải quyết quan hệ này, cũng như xuất phát từ yêu cầu thực tiễn mới, mối quan hệ này được Đảng nâng lên thành quan hệ giữa đổi mới đồng bộ thể chế phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Vì thế lời kêu gọi “Đổi mới lần hai về chính trị” của RFA là luận điệu xuyên tạc lố bịch, sẽ chẳng lừa bịp được ai./.


Sự “ngáo ngôn” của Lê Anh Hùng và Huỳnh Ngọc Chênh

          Tre Việt – Lợi dụng việc Tổng Bí thư Tô Lâm có ý kiến chỉ đạo Ban Tuyên giáo Trung ương, một số phần tử cơ hội, bất mãn chính trị đã có các bài viết, bình luận suy diễn, xuyên tạc về công tác tuyên giáo của Đảng trên nền tảng mạng xã hội và phương tiện truyền thông nước ngoài. Đáng chú ý là, ngày 01/11, kênh tiếng Việt, Đài VOA đăng bài: “Hai nhà hoạt động: Tuyên giáo không còn hợp thời, nên dẹp; cần cổ súy xã hội dân sự”. Theo bài viết, Lê Anh Hùng, Huỳnh Ngọc Chênh tự xưng là nhà hoạt động cho “dân chủ”, “nhân quyền” lý giải cho rằng: “lợi ích của nó đối với đất nước bằng không hoặc âm”; “Ít ai quan tâm nói tới Marx-Lenin, đấu tranh giai cấp. Thời đại này thông tin qua truyền thông, mạng xã hội nhiều rồi. Người dân thích cái gì, người ta tìm đến cái đó”. Đây là sự “ngáo ngôn”, suy diễn, xuyên tạc, phủ nhận, “ru ngủ” dư luận về vai trò công tác tuyên giáo của Đảng và Ban Tuyên giáo Trung ương, cần bị vạch trần, lên án, đấu tranh.

Công tác tuyên giáo là hoạt động lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực, như: tư tưởng, văn hóa và khoa giáo; việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ thông qua hệ thống cơ quan tuyên giáo từ Trung ương tới địa phương. Trong đó, Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ quan tham mưu, giúp việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức; về chủ trương, đường lối của Đảng trong các lĩnh vực: tuyên truyền, lý luận chính trị, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, lịch sử Đảng, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, thông tin đối ngoại, khoa học, công nghệ, môi trường, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, thể dục, thể thao, dân số, gia đình, trẻ em...; đồng thời, là cơ quan chuyên môn - nghiệp vụ về công tác tuyên giáo của Đảng.

Thực tiễn, hơn 94 năm hoạt động, ngành Tuyên giáo và công tác tuyên giáo đã trở thành bộ phận không thể tách rời, luôn gắn bó sâu sắc với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, góp phần xây dựng nền tảng chính trị của chế độ, nền tảng tinh thần của xã hội, hoạch định hệ thống quan điểm lý luận, cương lĩnh, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Với vai trò “đi trước mở đường, đi cùng thực hiện, đi sau tổng kết”, Tuyên giáo đã trở thành niềm tự hào của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khi tiếp tục đảm nhận vai trò tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa của Đảng, góp phần bảo vệ vững chắc, bổ sung, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong Đảng và xã hội, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Những đóng góp to lớn của ngành Tuyên giáo và công tác Tuyên giáo trong sự nghiệp cách mạng của Đảng là không thể phủ nhận; đồng thời, đang và sẽ tiếp tục đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Bởi, Đảng, Nhà nước, Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Và, để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó thì không thể thiếu sự đồng hành cùng đất nước, dân tộc của công tác tuyên giáo.

Vì thế, việc Lê Anh Hùng, Huỳnh Ngọc Chênh tự xưng “nhà hoạt động” rồi cho rằng: Tuyên giáo không còn hợp thời, nên dẹp; cần cổ súy xã hội dân sự là sự “ngáo ngôn”, với âm mưu, dụng ý xấu, độc nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ. Hành động này cần bị vạch mặt, đấu tranh bác bỏ./. 

 

Oct 24, 2024

Cảnh giác trước sự suy diễn, xuyên tạc về “điểm nghẽn” thể chế

          Tre Việt - Phát biểu tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XV vừa qua, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã nêu ra 3 “điểm nghẽn” lớn nhất hiện nay ảnh hưởng đến quá trình phát triển đất nước là thể chế, hạ tầng và nhân lực thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã đăng tải, chia sẻ nhiều bài viết suy diễn, xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông quốc tế, mạng xã hội. Đáng chú ý, ngày 23/10, kênh tiếng Việt, Đài Á Châu Tự do (RFA) đăng bài: “Lực lượng dân chủ trong và ngoài nước kêu gọi Việt Nam cải cách thể chế”; trong đó, yêu cầu cần cải cách thể chế chính trị theo chế độ đa nguyên, đa đảng để bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa các lực lượng chính trị khác nhau. Đây là sự suy diễn, xuyên tạc vô cùng thâm độc của các phần tử cơ hội chính trị, đòi hỏi chúng ta cần nêu cao cảnh giác, tỉnh táo để nhận diện và đấu tranh bác bỏ.

Cần khẳng định ngay rằng: ở Việt Nam chỉ có một lực lượng chính trị duy nhất nắm quyền lãnh đạo đất nước đó là Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội cả nước đang hướng tới, đi lên là chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn khách quan của lịch sử, đồng thời là sự lựa chọn của Đảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh và cả dân tộc Việt Nam. Đến nay, sau gần 90 năm ra đời, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành được chính quyền, thống nhất non sông, nắm quyền lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang khẳng định vai trò, vị thế của mình và con đường đã lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn cả về lý luận và thực tiễn. 

Tuy nhiên, đứng trước những thời cơ, thách thức để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phát triển nhanh, bền vững, đạt được những mục tiêu mà Đảng ta đã xác định thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá đúng những vướng mắc, khó khăn, bất cập, “điểm nghẽn” đang cản trở tiến trình hội nhập, phát triển đất nước. Từ đó, có các giải pháp khắc phục, tháo gỡ, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trong đó, tháo gỡ về thể chế, “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn” là yếu tố rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang sẵn sàng tâm thế bước vào một giai đoạn phát triển mới. Đặc biệt, với chức năng quan trọng của Quốc hội là lập hiến và lập pháp, cử tri và nhân dân mong muốn Quốc hội và các đại biểu Quốc hội tiếp tục thống nhất, gương mẫu đi đầu, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Bên cạnh đó, là sự vào cuộc đồng bộ của các ban, bộ, ngành, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, v.v. Làm được điều đó, nhất định đất nước ta sẽ ngày càng phát triển, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Song, với bản chất thâm độc, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị không cam tâm, đành lòng và không bao giờ từ bỏ âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội ở nước ta. Ngược lại, chúng luôn rình rập, “bới lông tìm vết”, “lập lờ đánh lận con đen”, tìm mọi cách để chống phá. Việc chúng đưa ra luận điệu: yêu cầu Việt Nam cần: “cải cách thể chế chính trị theo chế độ đa nguyên, đa đảng để bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa các lực lượng chính trị khác nhau,... là nguyện vọng của người dân mà còn thể hiện trách nhiệm của Đảng Cộng sản và Nhà nước trong việc giữ vững các giá trị nhân quyền đã cam kết” đã bộc lộ rõ bộ mặt thật, dã tâm xấu độc cần lên án, đấu tranh, bác bỏ./.