Sep 30, 2024

Sự suy luận “ấu trĩ” của Ủy ban Cứu trợ Thuyền nhân

 

          Tre Việt – Mới đây trên trang Quyenduocbiet, BPSOS (Ủy ban cứu người vượt biển hay Ủy ban Cứu trợ Thuyền nhân - một tổ chức phản động lưu vong dưới danh nghĩa của tổ chức phi chính phủ), viết: “Người Thượng là Dân Tộc Bản Địa và phải được công nhận như vậy”, cho rằng, người Thượng và người Hmong theo đạo Cơ đốc, người, người Chăm theo đạo Hồi và người Khmer Krom theo đạo Phật, người thiểu số, nhất là người Thượng ở Tây Nguyên Việt Nam là “người bản địa”. Vì vậy, BPSOS kêu gọi Liên hợp quốc yêu cầu Việt Nam công nhận điều này và không được phân biệt đối xử, bỏ rơi người bản địa. Cần khẳng định rõ, đây là suy luận “ấu trĩ” của BPSOS, bởi:

Ảnh: nhanvanvietcom

Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị luôn tìm mọi phương thức, thủ đoạn lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ, nhân quyền” để kích động nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đi tới phá vỡ sự toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước của dân tộc ta. Lần này BPSOS cố tình lợi dụng bản “Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa” của Liên hợp quốc để vận động các quốc gia phương Tây nhằm kích động các dân tộc thiểu số, nhất là người Thượng ở Tây Nguyên đòi quyền tự quyết. Chúng cố tình “bỏ qua” nội dung rất quan trọng của Hiến chương Liên hợp quốc khẳng định: Chủ thể của quyền dân tộc tự quyết là quốc gia - dân tộc chứ không phải là một dân tộc thiểu số trong quốc gia - dân tộc đó. Pháp luật quốc tế không công nhận một dân tộc thiểu số ở một quốc gia được ly khai, được thành lập một quốc gia độc lập với quốc gia được quốc tế công nhận mà họ là công dân trong quốc gia đó. Như vậy, quyền tự quyết của tộc người trong một quốc gia - dân tộc không được phép vượt ra ngoai khuôn khổ quyền dân tộc tự quyết, không được xâm phạm quyền của cả quốc gia - dân tộc. Những đòi hỏi về quyền tự quyết mà các thế lực thù địch lợi dụng “Tuyên ngôn về quyền của người bản địa” chẳng những vi phạm Hiến pháp, phát luật Việt Nam, mà còn trái với Hiến chương Liên hợp quốc và Luật quốc tế về quyền con người. Về bản chất, những đòi hỏi này là một thủ đoạn chính trị nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, hoàn toàn không phải vì lợi ích của đồng bào các dân tộc thiểu số. Tuyên ngôn về quyền của người bản địa là một văn kiện rất đáng trân trọng. Song, chúng ta cần tỉnh táo, bảo vệ những giá trị cao quý của nó, đồng thời không để cho các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, lợi dụng, phục vụ cho những mưu đồ xấu xa, thâm độc của họ

          Chúng ta đều biết rằng, khái niệm “người bản địa” có nguồn gốc lịch sử, gắn liền với thời kỳ chủ nghĩa thực dân, đế quốc tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược, áp đặt sự thống trị của họ ở các quốc gia chậm phát triển. Chiến lược di dân, khai thác thuộc địa của họ đã dẫn đến sự phân hóa, hình thành hai nhóm hay hai tầng lớp xã hội ở những quốc gia này. Nhóm thứ nhất, là tầng lớp những người nước ngoài, bao gồm “các quan cai trị” cùng với những người di cư đến đây làm ăn họ có mối quan hệ mật thiết với bộ máy cai trị của thực dân, tầng lớp này thuộc đẳng cấp có nhiều đặc quyền, đặc lợi. Nhóm thứ hai, là cộng đồng những người dân thuộc địa còn lại được gọi là những “người bản địa” hoặc “người bản xứ”, thuộc đẳng cấp thấp hèn. Còn ở Việt Nam, thời kỳ trước năm 1945 (tính từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công) dưới sự cai trị của thực dân Pháp, 54 tộc người trong cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam đều bị thực dân Pháp gọi chung là những tên An-nam-mít (Annammit) với nghĩa miệt thị, khinh bỉ đều được coi là người bản địa. Như vậy là, khái niệm “người bản địa” chỉ mới ra đời ở Việt Nam từ khi Việt Nam trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp và nó chỉ tồn tại dưới chế độ đó. Song, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước Việt Nam đã giành được độc lập, thống nhất đất nước, nhà nước Việt Nam là Nhà nước của tất cả các dân tộc Việt Nam, thì khái niệm “người bản địa” và “quyền của người bản địa” đã lùi về quá khứ. Thay cho khái niệm đó là khái niệm “quyền công dân” - là quyền của tất cả mọi người dânViệt Nam, không phân biệt họ là dân tộc thiểu số hay đa số. Đó là một sự thật lịch sử, không ai có thể bác bỏ được!

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 ghi rõ: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Nhà nước thực hiện chính sách về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số là sự nghiệp chung của nhân dân cả nước, của nhân dân các dân tộc không phân biệt là dân tộc đa số hay thiểu số. Vì lợi ích trực tiếp của nhân dân các dân tộc thiểu số, đồng thời, vì lợi ích chung của cả nước, các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Chính sách dân tộc thể hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Thực hiện chính sách dân tộc là trách nhiệm chính trị của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Và trên thực tế, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành triển khai nhiều chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, Tây Nguyên nói riêng, “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Như vậy, cả trong chủ trương, đường lối, quan điểm đến thực tiễn thực thi, không có chuyện Việt Nam phân biệt, kỳ thị, ngược đãi, bỏ rơi người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Bởi thế, sự cố tình của BPSOS và những phần tử có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, cực đoan trong và ngoài nước lợi dụng bản “Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa” của Liên hợp quốc để vận động các quốc gia phương Tây, các tổ chức quốc tế công nhận ở Việt Nam có “dân tộc bản địa” chỉ là sự “ấu trĩ”, ẩn chứa nội dung hết sức thâm độc, cần bị vạch mặt, lên án đấu tranh bác bỏ./.

 

Sep 28, 2024

Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc thông qua kết quả Báo cáo UPR chu kỳ IV của Việt Nam

          Ngày 27/9, trong khuôn khổ Khoá họp thường kỳ lần thứ 57, Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã thông qua kết quả rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV đối với Việt Nam.

           Phiên họp do bà Heidi Schroderus-Fox, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân quyền chủ trì. Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Ngoại giao Đỗ Hùng Việt làm Trưởng đoàn, cùng với sự tham gia của Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại Liên Hợp Quốc, Tổ chức thương mại thế giới và các tổ chức quốc tế tại Geneva, Thuỵ Sĩ và đại diện một số Bộ, ngành liên quan.

Đoàn Việt Nam tại phiên họp của 
Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc.
(Ảnh: TTXVN)
          Phiên họp thu hút sự quan tâm, đăng ký tham dự của khoảng 90 đại diện các quốc gia, tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ (NGO) có quy chế tư vấn với Hội đồng - Kinh tế Xã hội LHQ (ECOSOC), trong đó có các tổ chức NGO của Việt Nam.

Phát biểu mở đầu phiên họp, Trưởng đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Đỗ Hùng Việt chia sẻ về những thiệt hại nặng nề về người và vật chất sau bão YAGI tại Việt Nam và những nỗ lực ứng phó khẩn trương, quyết liệt của Chính phủ, với ưu tiên cao nhất là đảm bảo tính mạng và an toàn cho người dân, nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định cuộc sống, khôi phục sản xuất kinh doanh. Đoàn Việt Nam gửi lời cảm ơn chân thành đến các nước, các đối tác và các cơ quan LHQ đã chia sẻ và hỗ trợ Việt Nam trong thời gian vừa qua.

Thông báo với Hội đồng Nhân quyền quyết định chấp thuận 271 trên tổng số 320 khuyến nghị các nước đưa ra tại Phiên đối thoại về báo cáo quốc gia vào tháng 5/2024, đạt tỷ lệ 84,7%, cao nhất trong 4 chu kỳ, Việt Nam tái khẳng định cam kết và chính sách nhất quán về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người và sự coi trọng đối với Cơ chế UPR và Hội đồng Nhân quyền.

Trưởng đoàn Việt Nam khẳng định lập trường này được xây dựng trên cơ sở tiến hành xem xét, rà soát kỹ lưỡng các khuyến nghị với sự tham gia đầy đủ của các cơ quan liên quan. Dự kiến một Kế hoạch tổng thể để thực hiện các khuyến nghị này sẽ được xây dựng và triển khai với sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan trên tinh thần đối thoại và hợp tác.

Thông tin cập nhật cho HĐNQ về tình hình bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam kể từ Phiên trình bày và đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam (tháng 5/2024), Thứ trưởng Đỗ Hùng Việt khẳng định Việt Nam tiếp tục tăng cường khuôn khổ pháp luật về quyền con người, thông qua ban hành, sửa đổi một số văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân.

Dù chịu tác động nặng nề của bão YAGI, đà tăng trưởng kinh tế tiếp tục được dự báo tích cực và ổn định, cùng với việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh là tiền đề vững chắc để bảo đảm quyền cho tất cả người dân. Bình đẳng giới, trao quyền cho phụ nữ, bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương tiếp tục đạt được những bước tiến tích cực trong thời gian qua.

Thứ trưởng Đỗ Hùng Việt cũng chia sẻ về chủ trương đặc xá 2024 cho hàng nghìn phạm nhân, tạo điều kiện để họ tái hoà nhập và đóng góp tích cực cho cộng đồng.

Đại diện các nước và nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ gửi lời chia buồn sâu sắc với những mất mát và thiệt hại sau bão tại Việt Nam đồng thời đánh giá cao sự tham gia nghiêm túc của Việt Nam trong toàn bộ tiến trình UPR, nhất là việc chấp thuận các khuyến nghị với tỉ lệ cao và xây dựng kế hoạch triển khai bài bản.

Hoan nghênh những nỗ lực và thành tựu ấn tượng của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, đặc biệt đặt trong bối cảnh phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, các đại biểu ghi nhận các tiến bộ mọi mặt ở Việt Nam về hoàn thiện thể chế, pháp luật về quyền con người, phát triển kinh tế-xã hội, đổi mới sáng tạo, giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội và quyền các nhóm dễ bị tổn thương.

Nhiều nước khuyến khích Việt Nam phát huy kinh nghiệm và thực tiễn tốt trong triển khai các khuyến nghị UPR. Một số tổ chức phi chính phủ nhấn mạnh đã được tạo điều kiện tham gia đóng góp vào tiến trình UPR ở Việt Nam, chia sẻ rằng thông qua tham gia UPR đã có nhiều đề xuất của mình được Chính phủ tiếp thu và triển khai trên thực tiễn, nhất là trong bảo đảm bình đẳng giới, trao quyền cho phụ nữ, thúc đẩy phát triển bền vững.

Kết thúc Phiên họp, Hội đồng Nhân quyền đã đồng thuận quyết định thông qua kết quả Báo cáo UPR chu kỳ IV của Việt Nam, đánh dấu hoàn thành rà soát chu kỳ IV liên quan đến việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam và bước sang giai đoạn thực hiện các khuyến nghị.

Cơ chế UPR là một cơ chế đặc thù của Hội đồng Nhân quyền LHQ, trong đó tất cả các Quốc gia Thành viên LHQ rà soát chính sách, pháp luật, biện pháp và kết quả đạt được trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.

Tháng 1/2024, Việt Nam đã nộp báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR chu kỳ IV tới Hội đồng Nhân quyền và đã có Phiên đối thoại với Nhóm làm việc của HĐNQ về UPR vào tháng 5/2024; trong đó Việt Nam nhận được 320 khuyến nghị từ 133 nước.

Sau phiên họp thông qua kết quả ngày 27/9/2024, Việt Nam sẽ bước sang giai đoạn thực hiện các khuyến nghị đã chấp thuận và chuẩn bị cho báo cáo chu kỳ tiếp theo./.

(nguồn tienphong.vn)

 

Sep 27, 2024

Bác bỏ thông tin xuyên tạc "cán bộ bỏ mặc nhân dân tự chống chọi với thiên tai"

       Những ngày qua, khi toàn xã hội chung tay góp sức giúp người dân các tỉnh phía Bắc khắc phục hậu quả do bão số 3 và hoàn lưu bão gây ra thì trên không gian mạng xuất hiện một số tài khoản có phát ngôn phiến diện, lạc lõng, xuyên tạc sự thật.

      Các ý kiến này cố tỏ ra có nghĩa khí, trách nhiệm, lớn tiếng hoài nghi rằng Đảng, Nhà nước, nhất là đội ngũ cán bộ cấp cao vẫn “chăn ấm, đệm êm”, không quan tâm đến công tác phòng, chống bão lũ, bỏ mặc nhân dân tự chống chọi với thiên tai.

      Một số ý kiến mỉa mai rằng: Chỉ có dân cứu dân khi hoạn nạn, dân không thể kêu cứu chính quyền mà chỉ có thể nhờ ai đó giúp mình; rằng sự xuất hiện của cán bộ trong bão lũ cũng chỉ là “phông bạt” để “mị dân”... Thực tế, những cách nghĩ, nhận thức, hoặc suy diễn nêu trên là hoàn toàn sai lầm, gây nguy hại, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo phòng, chống thiên tai và làm giảm uy tín, danh dự của đội ngũ cán bộ trong Đảng. 

Có thể khẳng định: Những thông tin xuyên tạc, mang tính quy kết “gắp lửa bỏ tay người” của các thành phần thoái hóa biến chất, rơi vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã gây nên sự hoài nghi, hoang mang trong dư luận. Đây là "cái cớ" để các thành phần phản động, chống phá tập trung hướng lái dư luận hiểu sai lệch, cho rằng Đảng, Nhà nước không quan tâm đến đời sống dân sinh, bỏ mặc người dân trong tình cảnh khốn khó; cố tình gây chia rẽ giữa nhân dân với Đảng, chính quyền, chia rẽ giữa LLVT và nhân dân, bôi nhọ cán bộ của Đảng, chê bai Đảng và chế độ ta, từ đó kích động chống đối từ bên trong.

Thực tế cho thấy, thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan đang diễn ra ngày càng phức tạp, khó lường, hậu quả gây ra là không thể tránh khỏi. Đảng ta và các đồng chí cán bộ lãnh đạo không chỉ sớm nắm bắt tình hình, dự báo đúng, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để chủ động phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả xảy ra và nỗ lực khắc phục thiệt hại. Cùng với đó, khi bão lũ diễn biến phức tạp, các đồng chí cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các cấp đều có mặt ở những nơi khó khăn, nguy hiểm để trực tiếp chỉ đạo ứng phó và hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân.

Hình ảnh Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cùng nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành trực tiếp đến kiểm tra, thăm hỏi, động viên nhân dân vùng lũ và hàng vạn cán bộ, LLVT ngày đêm dầm mình trong mưa lũ, hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân... là minh chứng rõ nét nhất về tác phong công tác và đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ của Đảng luôn sát dân, vì dân trong bất luận hoàn cảnh nào. Đồng thời, thực tế này cũng giúp đập tan những nhận thức lệch lạc, phiến diện xuất hiện trên không gian mạng trong thời gian gần đây, khi cho rằng: Bệnh quan liêu, xa dân đã “ăn sâu bám rễ”, trở thành “căn bệnh” phổ biến trong đội ngũ cán bộ của Đảng, khiến những luận điệu ấy trở nên “lạc điệu” trong lũ dữ.

Nhiều người dân cứ tự đặt câu hỏi: Không biết những ngày trong tâm điểm mưa lũ, với bộn bề những công việc như chuẩn bị các nội dung cho Hội nghị Trung ương 10 (khóa XIII); đón tiếp nguyên thủ các nước đến thăm Việt Nam; lãnh đạo, chỉ đạo công tác ứng phó, khắc phục bão số 3 và hoàn lưu do bão gây ra và mọi mặt đời sống-xã hội... các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước được mấy phút chợp mắt nghỉ ngơi hay thức trắng đêm vì dân, vì nước?

Không cảm động sao được khi vừa dự xong Lễ khai giảng năm học 2024-2025 của Học viện Quốc phòng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cùng đoàn công tác lên đường hướng về vùng lũ Tuyên Quang, Phú Thọ trực tiếp kiểm tra, động viên nhân dân và các lực lượng làm nhiệm vụ khắc phục hậu quả mưa lũ. Hình ảnh Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính lội bùn đến các hộ dân ở Yên Bái động viên bà con và không thể kìm được xúc động khi trực tiếp đến nơi đau thương nhất tại Làng Nủ (Phúc Khánh, Bảo Yên, Lào Cai) nắm tình hình, động viên nhân dân vượt lên đau thương mất mát và chỉ đạo trực tiếp các lực lượng khẩn trương cứu dân, tìm kiếm những người mất tích do lũ quét gây ra. Đồng chí Trần Thanh Mẫn, Chủ tịch Quốc hội quần xắn cao, lội nước ngập đến thăm hỏi, động viên bà con vùng lũ Thái Nguyên.

Theo dõi nhiều diễn đàn mạng xã hội, chúng ta dễ dàng nhận thấy: Có đến hàng chục triệu lượt chia sẻ, bình luận tích cực, bày tỏ sự ghi nhận, tán dương, thể hiện lòng biết ơn trước những việc làm, hoạt động mà các đồng chí lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương, các tướng lĩnh trong Quân đội, Công an và cán bộ, chiến sĩ LLVT đã và đang thực hiện trong bão lũ. Điểm chung những chia sẻ, bình luận của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước đều biểu thị sự ủng hộ, khen ngợi đội ngũ cán bộ các cấp, cán bộ, chiến sĩ LLVT vì dân; không quản ngại hiểm nguy, khó khăn, gian khổ, trực tiếp xuống kiểm tra, nắm bắt tình hình thực tế tại những địa bàn chịu thiệt hại nặng nhất; lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có những chỉ đạo kịp thời trong bão lũ với quyết tâm lo cho dân là trên hết, trước hết. Những bình luận như: “Tuyệt vời Việt Nam”, “Các bác thật gần dân, sát dân”, “Đoàn kết, chúng ta sẽ vượt qua lũ dữ”, “Việt Nam kiên cường”... trở thành thông điệp để “nghĩa Đảng, lòng dân” thêm bền chặt; gắn kết cộng đồng người Việt Nam trong và ngoài nước cùng chung tay với Đảng, Nhà nước hướng về đồng bào vùng bão lũ.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhiều lần nhấn mạnh: Có dân là có tất cả! Và người đặc biệt coi trọng, giáo dục đội ngũ cán bộ các cấp phải trọng dân, gần dân, vì dân mới làm được cách mạng và đó mới là mục đích của cách mạng. Thực tiễn, trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, có biết bao thế hệ cán bộ từ nhân dân mà ra, được nhân dân đùm bọc, che chở, nuôi dưỡng, trưởng thành. Đi qua một cơn bão dữ để thấy rằng: Tuyệt đại đa số cán bộ các cấp của Đảng, Nhà nước luôn vì nhân dân mà cống hiến, hy sinh; đau cùng nỗi đau của dân, thương cảm, sẻ chia để nỗ lực hơn nữa, quyết tâm hơn nữa, chăm lo cho người dân có cuộc sống tốt đẹp, nhất là lo cho người dân trong thiên tai, dịch bệnh; trong xóa đói, giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội.

Thực tiễn là thước đo công bằng nhất, tấm gương phản chiếu sinh động nhất nói lên phẩm chất đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ các cấp. Chính từ những việc làm vì dân, vì nước làm ngời sáng thêm đạo đức cách mạng của người cán bộ, củng cố thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Từ đó mà “ý Đảng, lòng dân” quyện chặt, cùng nhau vượt qua hoạn nạn, “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”; dù có thiên tai, địch họa, dù đất nước phải “sáng chắn bão dông, chiều ngăn nắng lửa” nhưng chỉ cần “Đảng vì dân, dân tin Đảng”, cùng nhau đoàn kết một lòng thì khó khăn nào chúng ta cũng vượt qua, đỉnh cao nào chúng ta sẽ vươn tới. Đó cũng là những minh chứng rõ nét nhất để chúng ta phê phán, phủ định những luận điệu xuyên tạc, nhận thức lệch lạc cho rằng: Cán bộ bỏ mặc dân trong lũ dữ.

Một Đảng vì dân, đội ngũ cán bộ các cấp vì dân thì được nhân dân tin tưởng và từ đó Đảng ta vững mạnh, chế độ ta trường tồn. Ngược lại, nếu xa dân, để mất niềm tin của nhân dân là mất tất cả. Điều đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng phải luôn biết “tự soi, tự sửa” mình hằng ngày, để sống, làm việc sao cho xứng đáng với niềm tin, sự kỳ vọng của nhân dân./.

 (Nguồn: https://www.qdnd.vn/)

Không thể phủ nhận sự thật về tự do tôn giáo ở Việt Nam

             Tre Việt – Mới đây, Nguyên Anh viết bài Thế nào là Tự Do Tôn Giáo? Trong bài viết y xuyên tạc rằng: Trong chế độ độc tài toàn trị cộng sản Việt Nam, tôn giáo hoàn toàn không có tự do; Việt Nam đang bị thế giới lên án là không có tự do tôn giáo. Ngay lập tức, các thế lực thù địch lại dùng “trò luận bàn” để phát tán rộng rãi trên nhiều diễn đàn mạng xã hội, nhằm quy chụp một cách vô căn cứ về quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam. Đây là chiêu trò không mới của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường dùng, hòng biến tôn giáo thành “ngòi nổ” để xuyên tạc, kích động, gây mất ổn định chính trị - xã hội, phá hoại tư tưởng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cần khẳng định rõ: những luận điệu này hoàn toàn sai trái, bịa đặt, phản ánh một cách lệch lạc tình hình tự do tôn giáo ở nước ta hiện nay. Bởi:

Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tôn giáo và thực hiện đoàn kết tôn giáo; chống vi phạm quyền tự do tôn giáo dưới mọi hình thức. Điều 24, Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. 2. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cùng với đó, quyền tự do tôn giáo của công dân còn được ghi nhận trong  Bộ Luật Hình sự, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Dân sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật đất đai, Luật Giáo dục, v.v. Đây chính là minh chứng cho thấy hệ thống pháp luật về hoạt động tôn giáo ngày càng được bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện, bảo đảm việc thực hiện đầy đủ quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cũng nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử, kỳ thị tín ngưỡng, tôn giáo; nghiêm cấm những tổ chức, cá nhân nhân danh tôn giáo để hoạt động đi ngược lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, làm phương hại an ninh, trật tự an toàn xã hội hay trục lợi vì bất cứ lý do gì. Điều này hoàn toàn phù hợp với Mục 3, Điều 18, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 16/12/1966: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”. Do đó, những luận điệu xuyên tạc của Nguyên Anh, cho rằng Việt Nam “không có tự do tôn giáo” là hành động bôi đen sự thật, xuyên tạc bản chất tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Hiện nay (tính đến tháng 12/2023), Nhà nước Việt Nam đã công nhận 38 tổ chức tôn giáo, cấp đăng ký hoạt động tôn giáo cho 2 tổ chức và 1 pháp môn tu hành thuộc 16 tôn giáo. Chính quyền các cấp luôn tạo điều kiện để các sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo của tất cả các tôn giáo được diễn ra bình thường. Những ngày lễ trọng của các tôn giáo như: Lễ Phật đản của Phật giáo; Lễ Giáng sinh, Lễ Phục sinh của Công giáo và Tin lành,… đã thu hút đông đảo tín đồ tham dự và được tổ chức với quy mô lớn. Trong năm 2023, để thiết thực đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của người dân, nhà xuất bản Tôn giáo đã xuất bản hơn 2.400.000 bản in; trong đó có nhiều kinh sách của các tôn giáo được xuất bản bằng tiếng Anh, Pháp, tiếng dân tộc, v.v. Đặc biệt, có hơn 300 lượt chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo tham gia hội nghị, hội thảo, các khóa đào tạo về tôn giáo ở nước ngoài; gần 400 lượt người nước ngoài vào Việt Nam hoạt động tôn giáo, v.v. Đồng thời, Giáo hội Công giáo Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á Châu năm 2023; Giáo hội Phật giáo Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Ban Thư ký Diễn đàn Phật giáo châu Á vì hòa bình; các Hội thánh Tin lành Việt Nam tổ chức Lễ hội “Xuân yêu thương”, v.v. Hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo được Nhà nước quan tâm, hỗ trợ. Tháng 7/2023, Việt Nam - Tòa thánh Vatican đã nâng cấp quan hệ lên cấp có Đại diện thường trú tại Việt Nam, đồng thời thông qua việc ký Thỏa thuận Quy chế hoạt động của Đại diện thường trú và Văn phòng đại diện thường trú Tòa thánh Vatican tại Việt Nam. Việc tăng cường mối quan hệ này không chỉ thể hiện sự đúng đắn trong chiến lược ngoại giao của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tôn giáo, mà còn thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước dành cho cộng đồng các tôn giáo nói chung, cộng đồng Công giáo ở Việt Nam nói riêng. Thực tiễn đó là bằng chứng đanh thép để khẳng định: luận điệu xuyên tạc về tự do tôn giáo ở Việt Nam của Nguyên Anh là hoàn toàn sai sự thật, không phản ánh chính xác, đầy đủ tình hình, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo vệ, thúc đẩy quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Thực tế đời sống tôn giáo ở Việt Nam những năm qua rất đa dạng, phong phú là minh chứng sinh động, rõ nét nhất cho tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam ngày càng được đảm bảo tốt hơn. Những thành tựu đó không chỉ nhân dân trong nước, trong đó có tín đồ các tôn giáo ghi nhận, mà còn được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Đây là bằng chứng khách quan, chân thực nhất phản bác lại các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, cho rằng “Việt Nam không có tự do tôn giáo” của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị./.

 

Sep 25, 2024

Hành động vi phạm luật pháp quốc tế

          Tre Việt - Trang facebook Đài RFA ngày 23/9 đăng bài: “Tổ chức phi chính phủ gửi thư ngỏ đề nghị Mỹ và các nước phương Tây cấm vận TBT Tô Lâm”; trong đó thông tin: sáu tổ chức phi chính phủ (Việt Tân, Hội Anh Em Dân Chủ, Tổ chức Công giáo Hành động Chống Tra tấn - ACAT tại Bỉ, Pháp, Đức) đã công bố bức thư ngỏ gửi Tổng thống Mỹ cùng lãnh đạo các nước phương Tây khác đề nghị điều tra và có biện pháp cấm vận đối với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đang có chuyến thăm và làm việc tại New York, Mỹ. Cần khẳng định ngay rằng: đây không chỉ là hành động nực cười mà vi phạm trắng trợn luật pháp, thông lệ quốc tế, cần bị lên án, bác bỏ. Bởi vì:

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 - văn bản pháp lý cao nhất của đất nước đã xác định rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo đó: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan quyền lực cao nhất là Đại hội toàn quốc 5 năm một lần. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương. Ban Chấp hành Trung ương bầu ra Bộ Chính trị và Tổng Bí thư. Tại Điều 86, Hiến pháp năm 2013 quy định: Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Như vậy, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đang là người đại diện cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời, là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.

Thực tế, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đang cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam dự Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai, Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 79, làm việc tại Hoa Kỳ và thăm Cuba. Đây là hoạt động đối ngoại nằm trong kế hoạch của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã được trao đổi thống nhất, chuẩn bị, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các bên liên quan. Dựa theo nguyên tắc, luật pháp quốc tế thì các hoạt động trên sẽ diễn ra theo đúng kế hoạch, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và bảo đảm tuyệt đối an toàn. Do đó, việc 06 tổ chức phi chính phủ gửi thư ngỏ đề nghị Mỹ và các nước phương Tây cấm vận Tổng Bí thư Tô Lâm là việc làm phi lý, vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế.

Trong khi đó, 06 tổ chức phi chính phủ nói trên không hề đại diện cho bất kỳ quốc gia, dân tộc nào. Thực chất, các tổ chức này đều do một nhóm người vốn có thâm thù với chế độ, với đất nước Việt Nam tự thành lập, lôi kéo các phần tử phản động tham gia và luôn tìm mọi cách chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ (trong đó, tổ chức Việt Tân đã bị Việt Nam liệt vào danh sách là tổ chức khủng bố). Hơn thế nữa, lý do mà chúng nêu ra trong thư ngỏ là hoàn toàn bịa đặt, cố tình vu cáo. Sự thật là, những công dân, như: Trịnh Xuân Thanh, Trương Duy Nhất, Đường Văn Thái đều đã có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam. Sau thời gian bỏ trốn, chính họ tự quay trở về đầu thú hoặc xâm nhập trái phép qua biên giới trở lại Việt Nam nên bị các cơ quan chức năng bắt giữ. Các cơ quan chức năng thực thi pháp luật đã điều tra, đưa ra xét xử công khai theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam, bảo đảm đúng người, đúng tội và không có gì phải bàn cãi./.

 

Sep 16, 2024

Vẫn là trò “võ đoán”

         Tre Việt - Kênh tiếng Việt, Đài Á Châu Tự Do (RFA) ngày 13/9 đăng bài: “LHQ: Báo cáo vi phạm nhân quyền từ Việt Nam giảm đi do nhiều người sợ bị trả thù”; trong đó có đoạn viết: “... Chính phủ Việt Nam trả thù những tổ chức, cá nhân dám lên tiếng về vi phạm nhân quyền cho thấy một môi trường hạn chế nghiêm trọng quyền tự do ngôn luận”. Đây là thông tin phi lý, hoàn toàn không có cơ sở, vẫn là trò “nói dựa”, “võ đoán” của những kẻ chống phá đã sử dụng lâu nay, không phản ánh đúng tình hình nhân quyền, tự do ngôn luận ở Việt Nam.

Cần khẳng định rõ: vấn đề quyền con người, bảo đảm nhân dân được sống cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc là mong muốn, mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, ngay sau khi lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành được chính quyền, Đảng, Nhà nước ta đã bắt tay ngay vào công cuộc tái thiết, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, việc bảo đảm các quyền con người đã được quy định rõ trong Hiến pháp, pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ và thực thi các quyền con người, quyền công dân. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đều hướng tới con người, vì con người; lấy con người - nhân dân làm mục tiêu, động lực của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.

Trên thực tế, mặc dù hậu quả tàn phá sau mấy chục năm chiến tranh rất nặng nề, song Đảng, Nhà nước Việt Nam đã đề ra chủ trương, đường lối, chính sách lãnh đạo, phát triển đất nước phù hợp, đúng đắn nền kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, v.v. Nhờ đó,  đất nước liên tục phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng cao. Minh chứng là Báo cáo quốc gia theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc đã cung cấp tình hình cập nhật với những dẫn chứng, con số cụ thể, qua đó khẳng định nỗ lực rất lớn của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người. Chỉ tính từ năm 2019 đến hết tháng 11/2023, Việt Nam đã tiếp tục nỗ lực xây dựng Nhà nước pháp quyền với 44 luật được thông qua, trong đó có nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Việt Nam cũng đã và đang tiếp tục rà soát để sửa đổi, bổ sung một số luật phù hợp với các cam kết quốc tế. Đồng thời, tiếp tục rà soát, gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người cũng như triển khai các điều ước một cách nghiêm túc. Đến nay, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, 25 Công ước quốc tế về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Bên cạnh đó, Việt Nam còn tích cực đóng góp vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong thúc đẩy quyền con người trên thế giới với những sáng kiến, hành động thiết thực, cụ thể, nhất là trên cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2023 - 2025. 

Kể từ năm 2019, GDP trên đầu người ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ dân nghèo giảm 1,5% mỗi năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc gắn với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 81,7% năm 2016 lên 92% vào năm 2022; tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh đạt 98,3% và 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng. Đến tháng 9/2023, Việt Nam có hơn 78 triệu người sử dụng internet (xếp thứ 13 thế giới về số lượng người dùng, tăng 21% so với năm 2019), số thuê bao băng rộng di động là 86,6 triệu (tăng 38% so với năm 2019). Các phương tiện truyền thông, báo chí, internet phát triển mạnh, trở thành diễn đàn ngôn luận của nhân dân, của các tổ chức xã hội, là công cụ giám sát thực thi chính sách, pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, v.v. Đây là những thành tựu không thể phủ nhận, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao trong việc bảo đảm nhân quyền của Việt Nam.

Vậy nhưng, một số kẻ vốn có thâm thù với Việt Nam lại không “cam tâm”. Chúng luôn tìm cách lôi kéo, xúi giục những kẻ “cùng hội, cùng thuyền” cung cấp thông tin phiến diện, “võ đoán” rằng: Chính phủ Việt Nam trả thù những tổ chức, cá nhân dám lên tiếng về vi phạm nhân quyền để công kích, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ. Vì vậy, những hành động, dã tâm xấu độc này cần phải bị vạch trần, đấu tranh, lên án./.


Sep 10, 2024

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc của Việt Tân

 

        Tre Việt – Ngày 10/9, trang facebook Việt Tân đăng status xuyên tạc, phủ nhận những tiến bộ trong cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi đưa ra câu hỏi và “tự trả lời” mang tính rằng: “Tại sao chống hoài, bắt hoài... mà vẫn còn tham nhũng. Vì chế độ vẫn còn đó. Vì nó là mầm móng sinh ra tham nhũng”. Từ đó họ rêu rao, kích động rằng: “Cách xóa tham nhũng hiệu quả nhất là chế độ độc tài độc đảng không nên tồn tại. Vì chính nó sản sinh ra tham nhũng”!

Cần khẳng định dứt khoát: tệ nạn tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực; ở đâu có quyền lực, ở đó có nguy cơ xảy ra tham nhũng, một khi quyền lực bị lạm dụng. Tham nhũng là “căn bệnh” của nhà nước, do quyền lực nhà nước bị thao túng, tha hóa gây ra; có nhà nước là có tham nhũng, không phân biệt nhà nước đó là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, đi theo thể chế chính trị đa đảng hay một đảng. Mặt khác, nếu quyền lực được kiểm soát chặt chẽ với cơ chế quản lý, phòng ngừa đồng bộ, ngày càng hoàn thiện, thì quyền lực sẽ không thể bị lạm dụng; người có quyền lực sẽ “không thể,” “không dám”, “không muốn” và “không cần” tham nhũng, tình trạng tham nhũng sẽ được kiểm soát và hạn chế tối đa. Do đó, chế độ một đảng lãnh đạo cầm quyền không phải là nguyên nhân sinh ra tệ nạn tham nhũng và cũng không phải là không thể chống được tham nhũng. Thực tiễn, ở các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa, duy trì chế độ đa đảng, tham nhũng vẫn tồn tại; thậm chí một số nguyên thủ quốc gia (như ở: Tunisia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippin, Indonesia, Pakixtan, Brazil,…) cũng dính vào tội tham nhũng. Chẳng thế mà Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) hằng năm đều công bố chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) trong khu vực công, để cung cấp cái nhìn tổng quát về mức độ tham nhũng tương đối của 180 quốc gia và vùng lãnh thổ; trong đó, chủ yếu là các nước, vùng lãnh thổ đi theo thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện chế độ đa đảng. Nhìn vào bảng xếp hạng CPI hằng năm có thể thấy rất rõ quốc gia nào cũng có tham nhũng, khác nhau chỉ ở mức độ nghiêm trọng, bởi không có quốc gia nào đạt được điểm 100 (tức là không có tham nhũng). Bảng xếp hạng còn cho biết trong 10 năm qua (kể từ năm 2012), 23 quốc gia và vùng lãnh thổ đã giảm đáng kể về chỉ số CPI, trong đó có các nước như Australia, Canada và Mỹ. Điều đó cho thấy tham nhũng ở những nước này trong 10 năm qua có xu hướng gia tăng.

Thực tiễn ở nước ta cho thấy, những năm qua, với quan điểm “phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh này. Với tinh thần kiên quyết, kiên trì, công khai, minh bạch, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tiến hành một cách bài bản, đạt được những kết quả tích cực. Trong 6 tháng đầu năm 2024, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 308 tổ chức đảng, 11.005 đảng viên (tăng 34 tổ chức đảng và 1.055 đảng viên so với cùng kỳ năm 2023). Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 47 cán bộ diện Trung ương quản lý.

Ngành thanh tra, kiểm toán tập trung thanh tra, kiểm toán những lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực và các chuyên đề, vụ việc theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo. Qua thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị thu hồi, xử lý tài chính hơn 71.431 tỷ đồng và 24,9 ha đất; kiến nghị xử lý hành chính 856 tập thể, 3.862 cá nhân (tăng 72 tập thể, 950 cá nhân so với cùng kỳ năm 2023).

Cơ chế phối hợp trong phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực qua công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án tiếp tục được phát huy. Các cơ quan chức năng đã chuyển 269 vụ việc có dấu hiệu tội phạm đến cơ quan điều tra để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật. Kiểm toán Nhà nước đã cung cấp 89 hồ sơ, báo cáo kiểm toán và tài liệu có liên quan cho các cơ quan có thẩm quyền để phục vụ công tác điều tra, kiểm tra, giám sát.

Từ đầu năm đến nay, cấp có thẩm quyền đã xem xét cho thôi giữ chức vụ, nghỉ công tác, bố trí công tác khác đối với 14 cán bộ diện Trung ương quản lý và 172 cán bộ diện cấp ủy địa phương quản lý, về trách nhiệm người đứng đầu hoặc liên quan các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực; trong đó có 5 Ủy viên Bộ Chính trị, 1 Ủy viên Ban Bí thư và 4 Ủy viên Trung ương Đảng.

Công tác điều tra, truy tố, xét xử được chỉ đạo tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt. Nhiều vụ án tham nhũng, tiêu cực đặc biệt nghiêm trọng, liên quan đến nhiều bộ, ngành, địa phương được chỉ đạo xử lý nghiêm minh theo đúng phương châm “xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả một vùng, một lĩnh vực”, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”.

Trong 6 tháng đầu năm 2024, trên cả nước đã khởi tố mới, điều tra 2.836 vụ án/5.975 bị can về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ (tăng 841 vụ, 1.487 bị can so với cùng kỳ năm 2023). Riêng các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã kết thúc điều tra, truy tố, đưa ra xét xử sơ thẩm 8 vụ án/212 bị cáo, xét xử phúc thẩm 06 vụ án/39 bị cáo, v.v.

Công tác thu hồi tài sản tham nhũng; giám định, định giá tài sản tiếp tục được quan tâm chỉ đạo, có nhiều chuyển biến tích cực. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã chủ động áp dụng nhiều biện pháp để xác minh, truy tìm, thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát. Riêng các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo trong 6 tháng đầu năm 2024, các cơ quan thi hành án dân sự đã thu hồi được gần 7.750 tỷ đồng, nâng tổng số tiền thu hồi được từ khi thành lập Ban Chỉ đạo đến nay là 85.520 tỷ đồng.

Những kết quả cụ thể đó đã tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao. Không những vậy, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam còn nhận được sự ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế.

Luận điệu coi tham nhũng là do “chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ độc đảng cầm quyền sinh ra”, và “muốn chống tham nhũng phải xóa bỏ chế độ một đảng” là hoàn toàn sai trái, nhằm làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và gây nên nguy cơ bất ổn về chính trị trong xã hội. Do đó, cần đề cao cảnh giác và đấu tranh bác bỏ./.


Sep 9, 2024

HRW lại đòi hỏi phi lý

            Tre Việt - Kênh Truyền hình tiếng Việt, Đài VOA ngày 07/9 đưa bản tin: “HRW kêu gọi Việt Nam ngưng “đàn áp có hệ thống” những tiếng nói ôn hòa”. Trong đó, thông tin tổ chức HRW thúc giục chính quyền Việt Nam phóng thích tù nhân chính trị, đồng thời kêu gọi các tổ chức quốc tế gây áp lực để Hà Nội chấm dứt cuộc “đàn áp có hệ thống” những người có tiếng nói ôn hòa. Họ còn vu cáo rằng: Việt Nam đang giam cầm hơn 160 người, trong đó có nhiều nhà báo, bloger, như: Phạm Chí Dũng, Phạm Đoan Trang, các nhà hoạt động Trần Huỳnh Duy Thức, Cấn Thị Thêu, Nguyễn Đình Bách, v.v. Đây lại là sự đòi hỏi phi lý của HRW, cần vạch trần, đấu tranh, bác bỏ. Bởi vì:

Quan điểm, chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là luôn nỗ lực bảo đảm, thực thi các quyền cơ bản của con người. Và, trên thực tế, các quyền cơ bản của con người, như: quyền sống, quyền tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng,... đều được quy định rõ trong Hiến pháp, hệ thống văn bản pháp luật và thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện. Mọi quyết sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đều xuất phát từ con người, vì con người; mọi thành quả phát triển đất nước đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Nhờ đó, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ; không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, v.v. Điều này được phản ánh, khẳng định thông qua việc Việt Nam là nước có số người sử dụng mạng Internet, các trang mạng xã hội thuộc tốp đầu của thế giới. Tính đến đầu năm 2024, có 78,44 triệu người sử dụng internet tại Việt Nam, khi tỷ lệ tiếp cận Internet đạt 79,1%. Việt Nam có 72,70 triệu người sử dụng mạng xã hội vào tháng 01/2024, tương đương với 73,3% tổng dân số.

Cùng với sự phát triển toàn diện của đất nước, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng lên, tạo ra sự đồng thuận, tin tưởng, thống nhất cao trong toàn xã hội, góp phần củng cố niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, đưa đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là thực tế không thể phủ nhận, được nhiều quốc gia trên thế giới và nhiều tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Việc HRW cho rằng Việt Nam đang giam cầm hơn 160 người, như: Phạm Chí Dũng, Phạm Đoan Trang, Trần Huỳnh Duy Thức, Cấn Thị Thêu, Nguyễn Đình Bách,... và coi đó là tù nhân chính trị là hoàn toàn không chính xác, cố tình vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền. Sự thật đây là những người đã có hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng quyền tự do cá nhân để chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích quốc gia, xâm hại quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân nên đã bị các cơ quan chức năng thực thi pháp luật Việt Nam bắt giữ, điều tra, truy tố và xét xử công khai, bảo đảm đúng trình tự, quy định của pháp luật, đúng người, đúng tội. Đây là việc làm bình thường đối với bất kỳ quốc gia nào, không chỉ riêng ở Việt Nam, nhằm duy trì nghiêm kỷ cương, phép nước. Chính vì thế, việc HRW suy diễn đó là hành động “đàn áp có hệ thống” những người có tiếng nói ôn hòa thì thật là “nực cười”. Và, những đòi hỏi của HRW là hoàn toàn phi lý, cần đấu tranh bác bỏ./.

 

 

Sep 5, 2024

Sự thật dân chủ ở Việt Nam phản bác mọi xuyên tạc của Nguyên Anh

           Tre Việt - Vẫn với luận điệu cũ rích: vu cáo trắng trợn, vô căn cứ tình hình dân chủ của Việt Nam, mới đây trên trang mạng “quyenduocbiet”, Nguyên Anh đã đăng bài viết tựa đề “Loại dân chủ trong trại súc vật”. Bài viết của Nguyên Anh là một mớ “tạp nham”, sao chép, cắt ghép với những lời lẽ vừa xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, vừa bôi nhọ, vu cáo các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Tre Việt xin thông tin để độc giả thấy rõ bộ mặt thật cùng những lập luận phi khoa học, phi thực tiễn, là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn tình hình dân chủ ở Việt Nam của Nguyên Anh.

Thứ nhất, thử hỏi, nước Mỹ, nơi mà những kẻ cùng hội, cùng thuyền với Nguyên Anh ca tụng là thiên đường của “dân chủ”, vậy quyền con người ở đây được đảm bảo ra sao? Chỉ riêng từ đầu năm 2024 đến nay, nước Mỹ có nhiêu vụ bạo lực súng, đạn giết người, nhất là các em học sinh? Tre Việt xin thông tin và nhắc cho Nguyên Anh biết: mới đây nhất, ngày 02/9 ít nhất 04 người đã bị bắn chết trên một chuyến tàu điện ngầm ở thành phố Chicago và sáng ngày 04/9 lại xảy ra một vụ xả súng tại một trường trung học phổ thông ở bang Georgia (Mỹ). Phải chăng đó “dân chủ” kiểu Mỹ, khi quyền sống của thường dân, một quyền cơ bản thiêng liêng nhất được bảo đảm?

Thứ hai, ở Việt Nam dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Đặc trưng nền dân chủ của Việt Nam là tất cả mọi người đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ; chế độ dân chủ của Việt Nam dựa trên hệ thống chính trị các cấp. Đó là chế độ sinh hoạt của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; là tiếng nói của Mặt trận Tổ quốc và của các đoàn thể xã hội luôn luôn được tôn trọng. Ở đây tiếng nói, nguyện vọng của người dân được bảo đảm thông qua các đại diện của mình. Điều đó cho thấy bản chất của xã hội, xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam là một xã hội dân chủ, vì con người, không thể có luận điệu nào xuyên tạc, phủ nhận được.

Thứ ba, tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và tôn vinh. Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao trước hết nhờ những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, tích cực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ, bảo đảm an sinh xã hội. Việt Nam còn là một môi trường hòa bình, ổn định, có quan hệ ngoại giao hữu nghị với các nước, đấu tranh vì tiến bộ trên thế giới. Những thành tựu đó đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, tin tưởng và đánh giá cao. Vì thế, ngày 12/11/2013, Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 68 đã tiến hành bỏ phiếu kín bầu 14 thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền cho nhiệm kỳ 2014-2016; trong cuộc bầu cử này, Việt Nam đã trúng cử với số phiếu tín nhiệm cao (184 phiếu ủng hộ trên tổng số 193 phiếu bầu). Ngày 11/10/2022 tại Trụ sở Liên Hợp Quốc (New York, Hoa Kỳ), Việt Nam vinh dự được các thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nhất trí ủng hộ là ứng cử viên duy nhất của ASEAN cho vị trí thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025; đồng thời cũng là ứng cử viên châu Á duy nhất của Cộng đồng Pháp ngữ và được quốc tế tín nhiệm bầu chọn tái cử với số phiếu gần như tuyệt đối.

Thực tiễn trên là minh chứng hùng hồn bác bỏ luận điệu xuyên tạc vô căn cứ về tình hình dân chủ ở Việt Nam của Nguyên Anh./.

 

Sep 4, 2024

Sự vu cáo trắng trợn của Việt Tân

Tre Việt - Lợi dụng việc những ngày gần đây một số tờ báo đăng tải thông tin các cơ quan chức năng của tỉnh Yên Bái tiến hành gặp gỡ, nhắc nhở một em học sinh vì có những phát ngôn thiếu chuẩn mực trên mạng xã hội, các trang mạng xã hội phản động, như: Việt Tân, Chân Trời Mới Media, Tiếng Dân News,... như “vớ được vàng” nhao nhao đăng tải các bài viết, status phê phán, lên án, nói xấu chế độ khi cho rằng như vậy là không dân chủ, là trấn áp người nói sự thật, v.v. Điển hình, ngày 04/9, trang facebook Việt Tân đăng status có nội dung: “Chỉ một câu, nói lên sự suy nghĩ của cháu Olympia, thế mà huy động hàng chục ngàn dư luận viên, công an và cả truyền thông, báo chí đều lao vào tấn công, thậm chí hăm dọa, khủng bố tinh thần...”. Vậy sự thật là sao?

Cần khẳng định rằng, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, đưa ra những chủ trương, đường lối, chính sách để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,... của đất nước, nhằm không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Nhờ đó, những năm qua, bức tranh sinh động về đời sống xã hội ở Việt Nam có nhiều điểm sáng, khởi sắc; dư luận nhân dân đồng tình ủng hộ, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc đổi mới, vào sự phát triển của đất nước. Mỗi người dân Việt Nam đều dễ dàng nhận thấy, dịp kỷ niệm 79 năm ngày Quốc khánh 2/9 và 55 năm thực hiện bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm nay, Đảng, Nhà nước ta đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền, kỷ niệm thiết thực. Trên khắp các nẻo đường,  vùng, miền Tổ quốc đều rực rỡ cờ, hoa, nhân dân vui tươi, phấn khởi. Đặc biệt, thế hệ trẻ hôm nay đã có nhiều hành động, việc làm ý nghĩa, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước; hướng về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại; tri ân công lao của các thế hệ cha anh đi trước, như: vào Lăng viếng Bác, đi thăm các khu di tích lịch sử; sơn Cờ Tổ quốc trên mái nhà; thay hình nền, ảnh đại diện tài khoản mạng xã hội; đăng tải nhiều hình ảnh, tranh cổ động, Cờ Tổ quốc, ảnh Bác Hồ trên nhật ký tài khoản zalo, facebook cá nhân, v.v.

Chính vì vậy, khi đọc thông tin mà em học sinh ở Yên Bái đăng tải trên mạng xã hội thì đông đảo người dân, cộng đồng mạng đã lên tiếng, tạo ra làn sóng phản đối mạnh mẽ về những phát ngôn thiếu chuẩn mực về đất nước. Đây là điều hoàn toàn dễ hiểu. Và, trước những phản hồi, phê phán của cộng đồng; sự phân tích của gia đình, bạn bè và các thầy cô giáo, em học sinh đã đăng tải bài viết xin lỗi: “Là một người trẻ lớn lên ở Việt Nam, mình là người rất thích đọc lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc và mong muốn tìm hiểu về nguồn cội của bản thân. Tuy vậy, trong quá trình tìm hiểu, mình đã bị ảnh hưởng bởi những tư liệu không đúng sự thật và mang tính ác ý với Tổ quốc”. Có thể thấy, internet, mạng xã hội như “con dao hai lưỡi”, đòi hỏi người dùng phải luôn là người thông thái.

Ca dao Việt Nam cũng có câu: “Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài/Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi” để cho thấy việc các cơ quan chức năng, nhà trường, gia đình và xã hội phải thường xuyên giáo dục, trau dồi phẩm chất, đạo đức, nhân cách của thế hệ trẻ hôm nay là việc làm rất cần thiết, không bao giờ là thừa cả.

Sự việc chỉ có vậy, song Việt Tân lại “ngộ lên” cho rằng: ...huy động hàng chục ngàn dư luận viên, công an và cả truyền thông, báo chí đều lao vào tấn công, thậm chí hăm dọa, khủng bố tinh thần là sự vu cáo trắng trợn, hoàn toàn phi lý, không có cơ sở, cần lên án, đấu tranh, bác bỏ./.