Jul 17, 2025

Việt Tân lại nói càn

          Tre việt – Ngày 16/7, trên trang facebook Việt Tân có ý kiến phản động cho rằng “Bí thư, Chủ tịch thành phố Hà Nội được Vượng Vin cho ăn bao nhiêu mà ra chỉ thị cấm xe xăng vào nội đô”. Đây là luận điệu sai lệch, nguy hiểm và không có cơ sở. Nó không chỉ làm lệch hướng dư luận về một chính sách vì môi trường và sức khỏe cộng đồng, mà còn gây tổn hại uy tín của chính quyền và doanh nghiệp tư nhân chân chính.

Thứ nhất, VinFast không phải là doanh nghiệp duy nhất sản xuất xe điện tại Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước khác cũng đang tham gia thị trường này như TC Motor, Thaco, Toyota, Nissan, Hyundai, Kia, Mitsubishi… Nếu vì ưu ái cho VinFast thì tại sao những doanh nghiệp còn lại cũng hưởng lợi? Đây là lợi ích ngành, không phải lợi ích nhóm.

Thứ hai, khi cấm xe xăng, nảy sinh hàng loạt các vấn đề cần giải quyết để bảo đảm giao thông xanh thay thế, như: tàu điện, xe buýt điện, các phương tiện di chuyển cá nhân bằng điện, hệ sinh thái sử dụng cho xe điện (trạm sạc, dịch vụ pin, dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng xe điện, các điểm đỗ mới), kinh phí hỗ trợ chuyển đổi phương tiện cho người dân,... gây áp lực rất lớn lên hạ tầng giao thông, tài chính công và cả người dân – vốn là trách nhiệm mà chính quyền phải giải quyết. Nếu chỉ có lợi cho VinFast, thì tại sao lại nhận lấy gánh nặng điều hành một quyết sách đầy rủi ro và gây tranh luận?

Thứ ba, chưa có bất kỳ bằng chứng nào được công bố hoặc điều tra cho thấy lãnh đạo thành phố Hà Nội có quan hệ lợi ích cá nhân với VinGroup. Việc lan truyền thông tin theo kiểu “thuyết âm mưu” như vậy chỉ làm xói mòn niềm tin xã hội, gây chia rẽ và làm mất uy tín của bộ máy nhà nước.

Thứ tư, chính VinGroup cũng đang đầu tư sản xuất xe điện ở nhiều nước khác (như Mỹ, Indonesia), nơi mà chính phủ các nước này không hề chịu ảnh hưởng bởi doanh nghiệp Việt Nam, nhưng vẫn có chính sách khuyến khích xe điện. Điều đó cho thấy VinFast phát triển nhờ đón đúng xu thế, chứ không nhờ “mua chuộc chính quyền”.

Việc hạn chế xe xăng là xu thế tất yếu toàn cầu, được hoạch định trong các văn bản quy hoạch quốc gia, có sự chuẩn bị về mặt pháp lý và hạ tầng. Chúng ta cần nhận ra rằng: không phải chính quyền làm theo doanh nghiệp, mà doanh nghiệp thông minh sẽ đi trước đón đầu chính sách đúng đắn của Nhà nước. Đồng thời, việc ra quyết định cấm xe xăng không hề mang tính tùy tiện hay bị chi phối, mà được đặt trong một quá trình hoạch định chính sách có cơ sở khoa học, pháp lý và thực tiễn rõ ràng. Thay vì nghi ngờ, quy chụp và lan truyền thông tin vô căn cứ, mỗi người dân nên tiếp cận vấn đề bằng tư duy phản biện có trách nhiệm, dựa trên bằng chứng và hướng đến lợi ích dài hạn của xã hội./.

 

Tổ chức đưa, đón cán bộ đi làm ở trụ sở ủy ban nhân dân mới sau sáp nhập là giải pháp hoàn toàn hợp lý

  Tre Việt - Từ ngày 01/7/2025, mô hình chính quyền địa phương hai cấp đi vào hoạt động trên phạm vi toàn quốc. Đây là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động và bước đầu đã cho thấy tính ưu việt khi chính quyền sát gần Nhân dân hơn, thực hiện chức năng phục vụ Nhân dân tốt hơn, nhanh, gọn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đang tăng cường chống phá bằng nhiều luận điệu phản động; trong đó có luận điệu “đưa đón cán bộ đi làm bằng ô tô tại trụ sở ủy ban nhân dân mới sau sáp nhập dẫn đến lãng phí tiền của dân”. Phải khẳng định rằng luận điệu này là vô căn cứ, phiến diện, cần kiên quyết bác bỏ.

Ôtô đưa đoàn cán bộ công chức
đến trụ sở làm việc ở Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình)

         Trước tiên, chúng ta phải khẳng định rằng việc đưa đón cán bộ đến trụ sở làm việc mới sau sáp nhập nói chung và trụ sở ủy ban nhân dân nói riêng là cách làm hiệu quả của các địa phương và là giải pháp quan trọng, đáp ứng nhiều mặt trong bối cảnh chúng ta chưa thể ngay một lúc có thể bố trí đủ nhà công vụ hay chỗ ở cho cán bộ công chức. Bởi, sau sáp nhập, địa bàn hành chính của tỉnh được mở rộng đáng kể về không gian, tạo điều kiện tốt hơn cho phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương. Nhiều cán bộ, nhất là những người từ các đơn vị hành chính cũ, giờ đây phải di chuyển quãng đường xa hơn để đến trụ sở mới. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi, hạ tầng giao thông còn nhiều khó khăn, đường sá không thuận tiện cho xe máy cá nhân. Việc cán bộ tự túc di chuyển bằng xe máy hàng ngày sẽ tốn kém về chi phí, tiêu hao sức lực, mất nhiều thời gian di chuyển và tiềm ẩn rủi ro về an toàn giao thông, đặc biệt trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt hay giờ cao điểm. Do vậy, việc sử dụng ô tô công vụ giúp cán bộ đến nơi làm việc đúng giờ, đảm bảo an toàn và sức khỏe, từ đó duy trì tinh thần và hiệu suất công việc. Đây là sự đầu tư để đảm bảo nguồn nhân lực công vụ luôn sẵn sàng và hiệu quả. Bên cạnh, những lợi ích trực tiếp cho cán bộ và hiệu suất công việc, việc sử dụng xe đưa đón còn góp phần quan trọng vào việc giảm áp lực giao thông và bảo vệ môi trường. Khi một xe đưa đón thay thế hàng chục xe cá nhân, số lượng phương tiện lưu thông trên đường sẽ giảm đáng kể, đặc biệt trong giờ cao điểm. Điều này trực tiếp làm giảm ùn tắc và giảm thiểu nguy cơ tai nạn. Về mặt môi trường, việc giảm số lượng xe cá nhân đồng nghĩa với việc  góp phần bảo vệ bầu không khí trong lành. 

Hai là, chúng ta cần hiểu rõ bản chất xuyên tạc, phản động của luận điệu “lãng phí tiền của dân”. Luận điệu này là một sự bóp méo sự thật, đánh tráo khái niệm và phủ nhận những nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động. Thực vậy, luận điệu này cố tình tập trung vào một khía cạnh nhỏ (chi phí vận hành xe) và thổi phồng nó thành “lãng phí” mà bỏ qua những lợi ích to lớn hơn của chủ trương sáp nhập (tinh gọn biên chế, tiết kiệm chi phí vận hành lâu dài,...) và sự cần thiết của việc bố trí phương tiện để duy trì hoạt động hành chính hiệu quả trong bối cảnh mới. Đây là cách nhìn phiến diện, thiếu khách quan. Nó không dựa trên bất kỳ phân tích, đánh giá hiệu quả tổng thể nào về chi phí - lợi ích, mà chỉ dựa vào cảm tính hoặc thông tin phiến diện, không đầy đủ. Bằng cách gán nhãn “lãng phí tiền của dân” một cách vô căn cứ, luận điệu này nhằm mục đích kích động sự bất mãn của người dân, tạo ra hình ảnh tiêu cực về cán bộ, gây mất đoàn kết và làm suy giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đây là thủ đoạn thường thấy của các thế lực thù địch, phản động, lợi dụng các vấn đề xã hội để chống phá, gây rối, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

  Từ đó có thể khẳng định rằng việc triển khai xe ô tô đưa đón cán bộ đến trụ sở làm việc sau sáp nhập là một giải pháp hiệu quả và thiết thực, giúp ổn định hoạt động hành chính, nâng cao hiệu suất làm việc của cán bộ và đóng góp vào sự vận hành thông suốt của bộ máy mới. Những luận điệu của các thế lực thù địch là vô căn cứ, phiến diện. Chúng ta cần nhận diện rõ bản chất và cảnh giác trước những luận điệu sai trái này./.


Jul 15, 2025

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc về giá trị, ý nghĩa Ngày Độc lập của dân tộc

        Tre Việt - Ngày 02/9/1945 - một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là ngày mà tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng công bố bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ấy vậy mà không ít đối tượng phản động, cơ hội, chống đối đã cố tình xuyên tạc, bóp méo ý nghĩa thiêng liêng của ngày lịch sử này, biến Ngày Quốc khánh của dân tộc thành cái cớ để công kích nền tảng chính trị, phủ nhận giá trị độc lập và chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
       Mới đây, ngày 14/7/2025, trên trang facebook thoibao.de xuất hiện bài viết “NGÀY ĐỘC LẬP HAY NGÀY ĐỘC QUYỀN” được chuyển thể thành dạng short video. Bằng lối văn khiêu khích, ngụy biện, đánh tráo khái niệm và quy chụp, bài viết này đã cố tình vẽ ra hình ảnh “Ngày Quốc khánh là bữa tiệc của nhóm cầm quyền không cần bầu cử”, cho rằng “nhân dân chỉ là khán giả im lặng”, “quyền lực bị đóng băng”, và “ngày độc lập không thuộc về toàn dân”. Những luận điệu này không những thiếu căn cứ mà còn đi ngược hoàn toàn với thực tế lịch sử và chính trị của đất nước ta.
        Thứ nhất, bài viết đánh tráo khái niệm về dân chủ và quyền lực nhân dân. Với giọng điệu “có vẻ” có chiều sâu nhưng đầy xảo ngôn, cái gọi là thoibao.de cho rằng các quốc gia, như: Trung Quốc, Triều Tiên, Cuba, Việt Nam là “bạn vàng trong việc duy trì quyền lực tuyệt đối mà không cần một lá phiếu nào từ nhân dân”. Đây là một sự đánh tráo khái niệm thô thiển. Cần nhấn mạnh rằng, mô hình dân chủ ở mỗi quốc gia có đặc điểm riêng phù hợp với lịch sử, văn hóa và điều kiện cụ thể. Nền dân chủ ở Việt Nam là dân chủ xã hội chủ nghĩa – tức quyền lực thuộc về nhân dân, được thực hiện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, qua các tổ chức chính trị - xã hội, và đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
Không ai có thể phủ nhận rằng Việt Nam tổ chức tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu theo đúng quy định của Hiến pháp, với tỷ lệ cử tri tham gia luôn đạt trên 95%. Các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân đều do nhân dân lựa chọn, có trách nhiệm đại diện cho tiếng nói của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam - thông qua các kỳ Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị - hoạt động trên cơ sở tập trung dân chủ và nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”. Sự lãnh đạo của Đảng là sự lựa chọn từ thực tiễn cách mạng, không áp đặt mà do nhân dân tín nhiệm và thực tế lịch sử chứng minh.
       Thứ hai, bài viết cố tình bóp méo ý nghĩa và bản chất của ngày Quốc khánh 2/9. Ngày Quốc khánh 2/9 không phải là “bữa tiệc của nhóm người cầm quyền”, mà là ngày hội thiêng liêng của toàn dân tộc - ngày mà sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp “khai hóa”, 5 năm bị phát xít Nhật chiếm đóng và sau hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến - quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền làm chủ của dân tộc Việt Nam được khẳng định trước toàn thế giới như bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng… Dân tộc Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập”.
Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chính Nhân dân là chủ thể của độc lập, tự do và là Người bảo vệ nền độc lập ấy suốt 80 năm qua. Từ cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bảo vệ biên giới đến công cuộc xây dựng đất nước trong thời bình, không ai khác chính Nhân dân là lực lượng trung tâm, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nói “ngày độc lập không thuộc về toàn dân” là một sự xúc phạm trắng trợn đến hàng triệu người đã hy sinh xương máu vì nền độc lập ấy.
         Thứ ba, bài viết mang tư tưởng lệch lạc, cổ súy cho mô hình “đa nguyên, đa đảng” đầy hỗn loạn. Một luận điệu lấp lửng nhưng vô cùng nguy hiểm của bài viết khi cho rằng “ngày độc lập thật sự chỉ đến khi quyền lực không bị giam giữ trong một bàn tay”. Ẩn ý ở đây không có gì mới ngoài mục đích cổ súy cho mô hình đa nguyên, đa đảng phương Tây - nơi mà các nhóm lợi ích chi phối bầu cử, dân chủ trở thành hình thức, phân cực xã hội và bất ổn gia tăng. Nhiều quốc gia từng mơ hồ chạy theo mô hình “tự do phương Tây” nay đang rơi vào vòng xoáy nội chiến, can thiệp từ bên ngoài và mất ổn định kéo dài, v.v.
          Lịch sử đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn đúng đắn, do chính Nhân dân xác lập. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa dân tộc từ nô lệ thành người làm chủ, từ đất nước nghèo đói trở thành quốc gia ngày càng phát triển có vị thế, có uy tín trên trường quốc tế. Đó là thành quả của sự lãnh đạo đúng đắn, sự gắn bó máu thịt với Nhân dân - điều mà không mô hình đa đảng nào có thể tự hào bằng.
        Ngày Quốc khánh 2/9 là biểu tượng của khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của cả dân tộc Việt Nam, không của riêng ai, càng không phải “bữa tiệc cho nhóm người không cần bầu cử” như luận điệu mà cái gọi là thoibao.de rêu rao. Việc xuyên tạc bản chất của Ngày Độc lập, phủ nhận sự lựa chọn chính trị của dân tộc là một âm mưu nguy hiểm, cần được nhận diện, nhìn rõ và kiên quyết đấu tranh đến cùng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý tưởng cách mạng và niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã lựa chọn./.

Luận điệu vu cáo, “vơ đũa cả nắm” xuyên tạc cuộc cách mạng về tổ chức, tinh gọn bộ máy của Nguyễn Văn Đài

       Nguyễn Văn Đài, qua bài viết trên trang Facebook cá nhân mang tựa đề “Xã luận: Cải cách chính trị của ông Tô Lâm - đi ngược dòng chảy dân chủ”, đã tung ra hàng loạt luận điệu xuyên tạc, vu cáo vô căn cứ nhằm bôi nhọ công cuộc cải cách tổ chức bộ máy hành chính của Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm. Với giọng điệu ngạo mạn và thù địch, Đài không chỉ bóp méo sự thật mà còn cố tình áp đặt một mô hình dân chủ phiến diện, phủ nhận những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc xây dựng một hệ thống chính trị minh bạch, hiệu quả, phục vụ nhân dân.
Trang facebook cá nhân
của đối tượng Nguyễn Văn Đài
      Đầu tiên, Nguyễn Văn Đài cho rằng cải cách dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm là “một bước lùi tăm tối cho dân chủ”, củng cố “hệ thống chuyên chế tinh vi”. Đây là một cáo buộc thiếu cơ sở, mang tính quy chụp và bỏ qua thực tiễn cải cách tại Việt Nam. Công cuộc cải cách tổ chức bộ máy hành chính, khởi nguồn từ Nghị quyết số 18-NQ/TW năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Từ năm 2017 đến 2024, Việt Nam đã sắp xếp lại hơn 1.600 đơn vị hành chính cấp xã và hàng trăm đơn vị cấp huyện, giảm hàng chục nghìn biên chế, tiết kiệm ngân sách hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm, như được báo cáo tại các kỳ họp Quốc hội. Những kết quả này không chỉ thể hiện sự minh bạch, công khai mà còn chứng minh cam kết của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng một bộ máy hành chính hiệu quả, phục vụ nhân dân, trái ngược hoàn toàn với luận điệu “chuyên chế” của Đài.
        Tiếp theo, Đài cáo buộc cải cách “duy trì cơ chế chỉ định từ trên xuống”, không cho người dân quyền lựa chọn lãnh đạo, và do đó “không phải là dân chủ”. Đây là một sự đánh tráo khái niệm, cố tình áp đặt mô hình dân chủ phương Tây lên bối cảnh Việt Nam. Dân chủ không chỉ giới hạn ở việc bầu cử trực tiếp mà là một khái niệm đa chiều, phù hợp với đặc thù lịch sử, văn hóa, và xã hội của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” được Hiến pháp khẳng định rõ ràng. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Theo Ủy ban Bầu cử Quốc gia, cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV (2021-2026) đạt tỷ lệ cử tri đi bầu lên tới 99,57%, với hơn 69 triệu người tham gia, thể hiện sự đồng thuận mạnh mẽ của nhân dân. Các đại biểu được bầu trực tiếp bởi cử tri, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, tham gia quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước. Ngoài ra, các kênh dân chủ trực tiếp như lấy ý kiến nhân dân vào dự thảo luật, giám sát và phản biện xã hội qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cũng được phát huy mạnh mẽ, như quy định trong Luật Tiếp cận thông tin năm 2016. Việc Đài phớt lờ những hình thức dân chủ này để quy kết “không dân chủ” là một sự bóp méo trắng trợn, thiếu căn cứ.
       Đặc biệt nghiêm trọng là cáo buộc của Đài về “thị trường quan chức” và “mua bán chức quyền”, cho rằng các vị trí lãnh đạo là kết quả của “đặt ghế” và cải cách là “mô hình phối hợp giữa độc tài quyền lực và tư bản thân hữu”. Đây là một sự vu khống không có bằng chứng, mang tính “vơ đũa cả nắm” nhằm hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước. Thực tế, công tác cán bộ tại Việt Nam tuân thủ các quy định chặt chẽ, công khai, minh bạch, như Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi năm 2019) và Nghị định số 138/2020/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Quy trình bổ nhiệm dựa trên năng lực, phẩm chất đạo đức, và sự tín nhiệm của tập thể, không có chỗ cho sự tùy tiện. Hơn nữa, Đảng và Nhà nước đã quyết liệt đấu tranh với các hành vi tiêu cực như “chạy chức, chạy quyền”. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, từ năm 2020 đến 2024, hàng trăm cán bộ vi phạm, kể cả ở cấp cao, đã bị xử lý nghiêm minh, minh chứng cho quyết tâm làm trong sạch bộ máy. Những vụ án lớn như “chuyến bay giải cứu” hay sai phạm tại một số địa phương được công khai, minh bạch, hoàn toàn bác bỏ luận điệu “thị trường quan chức” của Đài.
      Đài còn vu cáo rằng cải cách là “vở kịch che đậy sự tham lam quyền lực và tiền bạc”, chỉ nhằm “tái phân phối quyền lực giữa các nhóm lợi ích”. Đây là một sự suy diễn ác ý, phủ nhận những thành tựu rõ ràng của cải cách hành chính. Thực tế, cải cách đã đạt được nhiều kết quả thiết thực: hàng ngàn thủ tục hành chính được cắt giảm, đơn giản hóa, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp; dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 được triển khai rộng rãi, với hơn 90% thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến vào năm 2024, theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông; việc tinh gọn bộ máy đã giảm chi phí vận hành, tiết kiệm ngân sách để đầu tư cho y tế, giáo dục, và an sinh xã hội. Những nỗ lực này không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý mà còn tăng cường tính minh bạch, phục vụ lợi ích của nhân dân, hoàn toàn trái ngược với cáo buộc “âm mưu chính trị” của Đài.
       Cuối cùng, luận điệu của Đài rằng cải cách “đi ngược dòng chảy dân chủ” là một sự áp đặt máy móc, thiếu hiểu biết về bối cảnh Việt Nam. Công cuộc cải cách hành chính là một phần quan trọng của cải cách chính trị, hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Những thành tựu như cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài (Việt Nam xếp hạng 70/190 trong báo cáo Doing Business 2020 của Ngân hàng Thế giới), hay tăng cường quyền giám sát của nhân dân qua các quy chế dân chủ ở cơ sở, đều chứng minh rằng cải cách đang đi đúng hướng. Những luận điệu của Đài không chỉ sai trái mà còn mang động cơ thù địch, nhằm gây hoang mang, chia rẽ niềm tin của nhân dân.
         Tóm lại, bài viết của Nguyễn Văn Đài là một điển hình của sự xuyên tạc, vu khống, lợi dụng tự do ngôn luận để bôi nhọ công cuộc cải cách của Việt Nam. Với những lập luận thiếu căn cứ, mang tính kích động, Đài không chỉ thể hiện sự thiếu hiểu biết mà còn lộ rõ ý đồ chính trị thù địch, phục vụ các thế lực chống phá. Công cuộc cải cách tổ chức bộ máy hành chính dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm là một bước tiến quan trọng, minh bạch, và vì lợi ích của nhân dân. Mọi nỗ lực bôi nhọ của Đài và các thế lực thù địch đều không thể làm lu mờ những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được, cũng như niềm tin của nhân dân vào con đường phát triển bền vững của đất nước. Toàn dân cần tỉnh táo, cảnh giác trước những luận điệu sai trái, tiếp tục ủng hộ và đồng hành cùng Đảng, Nhà nước trong hành trình xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

(Trích nguồn: nhanquyenvn.org)


Jul 14, 2025

Việt Nam luôn tôn trọng và sẵn sàng đối thoại về nhân quyền

     Mới đây, trang “Vietnamthoibao”, đăng tải bài viết: “Đối thoại nhân quyền có đem lại hiệu quả?” của bút danh NTT. Bài viết lấy nguồn tin không chính thống, đưa ra những cáo buộc vô căn cứ về tình hình nhân quyền tại Việt Nam như: “Việt Nam thiếu thiện chí trong vấn đề nhân quyền, Việt Nam không thừa nhận có tù nhân lương tâm mà chỉ có những người vi phạm pháp luật, tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam có xu hướng gia tăng…”. Qua đó, chống phá tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.

    1. Trong nền tư pháp Việt Nam không có thuật ngữ “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “người bất đồng chính kiến”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần nêu rõ: Ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”, không có việc những người vì tự do bày tỏ chính kiến mà bị bắt giữ. Như các quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm theo đúng các quy định của pháp luật. Bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam, được quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật, cũng như các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Mục đích chính của việc gắn mác trên nhằm biến các đối tượng vi phạm pháp luật, phạm tội thành những “ngọn cờ” đấu tranh cho cái gọi là dân chủ, nhân quyền. Từ đó, hậu thuẫn, kích động các đối tượng chống phá trong nước, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, v.v. Đây là một thủ đoạn nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động nhằm đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế; cổ xúy, hậu thuẫn, hỗ trợ cho một số đối tượng chống đối, phá hoại công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
    Có thể thấy rằng, “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “người bất đồng chính kiến” là những cái mác dễ khơi gợi lòng trắc ẩn trong công chúng. Có lẽ đó cũng là lý do ngày càng nhiều đối tượng sau khi vi phạm và bị xử lý theo luật pháp Việt Nam, được các thế lực thù địch dựng lên như những “tù nhân lương tâm”, tiếp tục trở thành công cụ để chúng vu cáo, bịa đặt về tình hình nhân quyền ở Việt Nam như Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Phạm Chí Dũng, Trần Thị Nga, Cấn Thị Thêu, Nguyễn Phương Uyên, Trịnh Bá Phương, Nguyễn Văn Hoá, Nguyễn Văn Túc, Lê Đình Lượn, v.v. Còn trên thực tế, không có chuyện bắt giam, bỏ tù những người bất đồng chính kiến như luận điệu xuyên tạc của NTT.
    2. Việt Nam luôn tôn trọng quyền con người và đối thoại về quyền con người. Quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế. Ở Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Điều 4, Hiến pháp năm 2013 và pháp luật là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng khẳng định “coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển”; “lấy nhân dân làm trung tâm” và “mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”. Đảng chủ trương thực hiện hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” ; mở rộng thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Vì vậy, đối thoại để giải quyết tốt những vấn đề về quyền con người luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm.
    Thực tiễn những năm qua, công tác đối thoại về quyền con người ở Việt Nam đã được thực hiện một cách có hiệu quả, góp phần bảo đảm quyền con người trên thực tế. Tính đến hết năm 2024, đối thoại nhân quyền Việt Nam - Hoa Kỳ 26 lần, Việt Nam - Australia 19 lần, Việt Nam - Thụy Sĩ 17 lần, Việt Nam - Na uy 14 lần, Việt Nam - EU 12 lần, v.v. Theo bảng xếp hạng Báo cáo Hạnh phúc Thế giới (World Happiness Report), chỉ số hạnh phúc của Việt Nam liên tục tăng với tốc độ cao trong những năm gần đây. Vào năm 2021, Việt Nam đứng thứ 79/149 quốc gia; năm 2022 tăng 2 bậc; tăng 12 bậc vào năm 2023. Việt Nam đang đứng thứ 54 vào năm 2024, tăng 11 bậc so với năm 2023. Tuy nhiên, đối thoại về quyền con người ở nước ta đã và đang bị các phần tử, thế lực lợi dụng nhằm gây mất ổn định an ninh, trật tự an toàn xã hội; hạ thấp uy tín, vị thế của Việt Nam; kích động chia rẽ làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước phục vụ cho chiến lược “diễn biến hòa bình”, chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.
    Do vậy, những luận điệu xuyên tạc về việc “Việt Nam thiếu thiện chí trong vấn đề nhân quyền, Việt Nam không thừa nhận có tù nhân lương tâm, tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam có xu hướng gia tăng”… là hoàn toàn không đúng sự thật. Bởi vậy, chúng ta phải luôn nêu cao cảnh giác và kiên quyết lên án, đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
(Trích nguồn: nhanvanviet.com)


Hạo Nhiên lại phán bừa

          Mới đây, trên trang “Vietnamthoibao”, Hạo Nhiên có bài viết: “Hồi hương - Ảo ảnh Việt nam đang “thịnh vượng và tự do” với nhiều luận điệu xuyên tạc trắng trợn những thành tựu phát triển của đất nước, hòng làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Luận điệu xuyên tạc: Thành tựu mà đất nước và nhân dân ta đạt được từ ngày thống nhất đất nước đến nay chỉ là “một ảo ảnh tạm bợ” đã cho thấy dã tâm chống phá Đảng, Nhà nước ta của Hạo Nhiên. Do đó, mỗi chúng ta cần nêu cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường phát triển trở thành một nước xã hội chủ nghĩa. Sau 50 năm thống nhất đất nước, gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị bao vây, cô lập, đến nay Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập tiệm cận trung bình cao, hội nhập sâu rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, có vai trò chủ động, tích cực tại nhiều tổ chức quốc tế, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2024 đứng thứ 32 thế giới và nằm trong nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, hiện chỉ còn 1,93% (theo chuẩn đa chiều) so với mức hơn 60% năm 1986. Tiềm lực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố. Quan hệ đối ngoại được mở rộng; vị thế, uy tín của đất nước không ngừng được nâng cao. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 nước là thành viên Liên hợp quốc.

Hai là, mọi tầng lớp nhân dân đều được thụ hưởng thành quả phát triển của đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc gắn kết phát triển kinh tế với phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội đã được thực hiện có hiệu quả; tạo cơ sở kích thích, khơi dậy và phát huy tính tích cực, năng động của con người. Nhờ vậy, các giai tầng xã hội và các chủ thể tự do, tự chủ đầu tư, phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cả về vật chất và tinh thần. Các phúc lợi xã hội trong giáo dục, y tế, nhà ở tại Việt Nam đều được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hiện nay, cả hệ thống chính trị tại Việt Nam đang nỗ lực chung tay hỗ trợ người nghèo xây dựng nhà ở để đến hết năm 2025 sẽ xóa được toàn bộ 400.000 nhà tạm, nhà dột nát trên cả nước. Báo cáo hạnh phúc thế giới năm 2024, Việt Nam đứng thứ 54, tăng 11 bậc so với năm 2023. Xét ở khu vực châu Á, Việt Nam đứng vị trí thứ 6. Đây là bảng xếp hạng do Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố dựa trên kết quả khảo sát tại 143 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chỉ số hạnh phúc tại Việt Nam tăng đều qua các năm cho thấy kết quả đạt được rất quan trọng của Đảng, Nhà nước ta về chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Trong lúc tình hình an ninh của một số khu vực trên thế giới rất phức tạp với cảnh bom rơi đạn lạc thì người dân Việt Nam càng cảm nhận được sự vô giá của hòa bình, hạnh phúc mà mình đang được hưởng.

Như vậy, những luận điệu mà Hạo Nhiên đưa ra đã thể hiện rõ bộ mặt của kẻ phản động, chống phá cách mạng nước ta. Do đó, chúng ta cần nâng cao cảnh giác và đấu tranh kiên quyết với những luận điệu phản động của Y. Đồng thời, luôn vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thành công của sự nghiệp đổi mới, đưa Việt Nam tự tin bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)


Jul 9, 2025

Bằng chứng rõ ràng, phản bác những thông tin sai lệch về tình hình quyền con người tại Việt Nam

           Tre Việt - Trong hai ngày (07 - 08/7/2025), tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ, Ủy ban Nhân quyền của Liên hợp quốc tổ chức Phiên họp đánh giá Báo cáo quốc gia lần thứ tư của Việt Nam về thực thi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (sau đây gọi là Công ước ICCPR). Đoàn liên ngành của Việt Nam, gồm các thành viên đến từ các cơ quan có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện Công ước ICCPR, do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh làm Trưởng đoàn đã tham dự Phiên họp này với mục đích chia sẻ những bước tiến tích cực, thành tựu đáng khích lệ trong việc bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự và chính trị trong thời gian qua ở Việt Nam.

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh
và các thành viên đoàn Việt Nam tại Phiên họp
(Ảnh: TTXVN từ Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ)

Công ước ICCPR là một trong những điều ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con người đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào năm 1966 và có hiệu lực vào năm 1976. Với phạm vi điều chỉnh rộng, bao trùm tất cả các quyền dân sự và chính trị của mỗi cá nhân, Công ước ICCPR ra đời đã nhận được sự quan tâm lớn của cộng đồng quốc tế.

Là một quốc gia yêu chuộng hòa bình, luôn đặt lợi ích của người dân lên trên hết, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, việc chăm lo, bảo vệ và bảo đảm quyền con người luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, coi đó là nhiệm vụ và ưu tiên hàng đầu. Cùng với việc gia nhập Công ước ICCPR ngày 24/9/1982, Việt Nam ngày càng đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc bảo vệ và phát huy quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 đã đánh dấu bước tiến quan trọng của Việt Nam trong nhận thức về quyền con người cũng như trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực. Trong những năm gần đây, nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng về quyền con người đã được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới. Những thành tựu về lập pháp, tổ chức thi hành pháp luật cùng với những nỗ lực về cải cách tư pháp trong thời gian qua là yếu tố đảm bảo quan trọng về pháp lý để mọi người dân Việt Nam có cơ hội và điều kiện thuận lợi thụ hưởng đầy đủ các quyền dân sự, chính trị.

Thực hiện nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước được quy định tại khoản 1, Điều 40 Công ước ICCPR, tháng 3/2023, Việt Nam đã nộp Báo cáo quốc gia lần thứ tư về thực thi Công ước và cuối năm 2024, đã nộp Báo cáo trả lời danh sách các vấn đề quan tâm của Ủy ban Nhân quyền. Các báo cáo được xây dựng theo đúng hướng dẫn của Ủy ban nhân quyền, có sự tham vấn rộng rãi các chủ thể có liên quan. Các báo cáo đều thể hiện rõ sự phát triển toàn diện trong việc bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự và chính trị từ sau khi Việt Nam nộp Báo cáo lần thứ ba năm 2019, đồng thời khẳng định việc tuân thủ các cam kết tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Với chủ trương coi con người là trung tâm, là mục tiêu và động lực của quá trình đổi mới, phát triển đất nước, kể từ sau khi nộp Báo cáo thực thi Công ước ICCPR lần thứ 3 vào năm 2019, Việt Nam đã tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về quyền con người và đạt được nhiều thành tựu trên thực tế. Các quyền về tiếp cận công lý, bình đẳng trước pháp luật, quyền sống, bảo vệ sức khỏe, giáo dục, bảo đảm an sinh xã hội, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tự do báo chí, internet, bình đẳng giới đều đạt những tiến bộ rõ rệt. Các chỉ số về phát triển con người (HDI), bình đẳng giới (GEI) của Việt Nam do các cơ quan Liên hợp quốc xếp hạng liên tục được cải thiện. Chính phủ đã có nhiều chính sách, biện pháp để bảo vệ sức khỏe người dân, phát triển kinh tế - xã hội trong và sau đại dịch Covid-19, tích cực thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và thực hiện các cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế về quyền con người.

Việc tham dự Phiên họp của Ủy ban Nhân quyền lần này thể hiện sự nghiêm túc của Việt Nam trong việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo về tình hình thực thi các cam kết quốc tế. Đối thoại tại Phiên họp cũng giúp Ủy ban Nhân quyền và các quốc gia thấy rõ bức tranh tổng thể của sự phát triển toàn diện, nhanh chóng trong việc bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự và chính trị từ sau khi Việt Nam nộp Báo cáo lần thứ ba năm 2019. Đối với một số ý kiến dựa trên những nguồn tin chưa được kiểm chứng của một số tổ chức, cá nhân về tình hình thực thi Công ước ICCPR tại Việt Nam, đoàn Việt Nam đã giải đáp, cung cấp thông tin xác thực, nhấn mạnh nguyên tắc đối thoại, hợp tác, tôn trọng khác biệt.

Thành công từ Phiên họp đánh giá, cùng những bằng chứng đưa ra tại báo cáo cũng như phiên đối thoại sẽ là câu trả lời rõ ràng, phản bác những thông tin sai lệch về tình hình quyền con người tại Việt Nam./.

 

Jul 8, 2025

Việt Nam quan tâm bảo đảm các quyền dân sự, chính trị

            Trong hai ngày 07 - 08/7/2025, Đoàn Việt Nam với đại diện của 9 cơ quan tham dự Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia thực thi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) tại Phiên họp thứ 144 của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc tại Geneva (Thụy Sĩ).

Đây là cơ hội để Việt Nam báo cáo những nỗ lực và kết quả đạt được trong việc thực hiện Công ước, đồng thời thể hiện tinh thần đối thoại cởi mở, cầu thị và tiếp tục hoàn thiện các chính sách quyền con người.

Được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16/12/1966 và có hiệu lực từ năm 1976, ICCPR là một trong những văn kiện quốc tế quan trọng nhất về quyền con người, bao gồm các quyền cơ bản như quyền sống, tự do ngôn luận, tự do hội họp, quyền bầu cử, và quyền xét xử công bằng. Ngày 24/9/1982 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Công ước.

Từ đó đến nay, Việt Nam không ngừng nỗ lực cụ thể hóa các cam kết quốc tế thông qua cải cách pháp luật, xây dựng, hoàn thiện chính sách, bảo đảm các quyền dân sự và chính trị được công nhận và thực thi trong thực tiễn. Hiến pháp năm 2013 tạo nền tảng pháp lý quan trọng về quyền con người. Chương II của Hiến pháp quy định về quyền con người và quyền công dân, phản ánh các nguyên tắc cốt lõi của ICCPR như quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, và quyền bầu cử.

Các nội dung này cụ thể hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Về quyền tự do ngôn luận, quy định tại Điều 19 của ICCPR, Việt Nam đã cụ thể hóa trong Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật An ninh mạng năm 2018. Các văn bản tạo hành lang pháp lý để công dân tiếp cận thông tin từ các cơ quan nhà nước một cách minh bạch, thực hiện quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng, đồng thời ngăn chặn các hành vi lợi dụng quyền này để lan truyền thông tin sai lệch, gây bất ổn xã hội. Các chương trình tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền tự do ngôn luận do chính quyền địa phương và các cấp, ngành liên quan triển khai rộng rãi qua tờ rơi, phát thanh, hội thảo, tọa đàm, v.v.

Về quyền bầu cử, quy định tại Điều 25 của ICCPR, năm 2015 Việt Nam ban hành Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân, quy định công dân được tham gia bầu cử và ứng cử, không phân biệt giới tính, dân tộc, hay tôn giáo. Nhờ đó các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp được tổ chức định kỳ, minh bạch, với tỷ lệ cử tri đi bầu luôn đạt mức cao.

Tại kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV (22/5/2016) và khóa XV (23/5/2021), tỷ lệ cử tri cả nước tham gia đạt hơn 98%. Điều này phản ánh sự tham gia tích cực và trách nhiệm của người dân vào đời sống chính trị. Có thể khẳng định, những nỗ lực của Việt Nam trong việc nội luật hóa ICCPR phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội và truyền thống văn hóa tạo nền tảng pháp lý vững chắc để thực thi các quyền dân sự và chính trị.

Suốt hơn 40 năm, kể từ khi gia nhập ICCPR, Việt Nam đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong việc bảo đảm các quyền dân sự và chính trị, thể hiện qua hoạt động cải cách pháp luật, các chương trình mục tiêu quốc gia và các chính sách thúc đẩy quyền con người. Riêng giai đoạn 2019 - 2025, kể từ Phiên họp thứ 143 (tháng 3/2019) đến Phiên họp thứ 144 (tháng 7/2025), Việt Nam ban hành và sửa đổi nhiều văn bản pháp luật quan trọng thể hiện cam kết giảm dần việc áp dụng án tử hình, phù hợp với xu thế quốc tế và Điều 6 của ICCPR.

Mới đây, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự có hiệu lực từ ngày 01/7/2025 đã bỏ hình phạt tử hình đối với tám tội danh gồm: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; tội gián điệp; tội phá hoại cơ sở vật chất-kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tội vận chuyển trái phép chất ma túy; tội tham ô tài sản; tội nhận hối lộ; tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược. Những người bị kết án tử hình về tám tội nêu trên trước ngày 01/7/2025 sẽ không phải thi hành án và được chuyển xuống tù chung thân.

Luật Tư pháp cho người chưa thành niên năm 2019 và Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 01/7/2025 tăng cường các biện pháp bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương, bảo đảm quyền được xét xử công bằng và quyền an toàn cá nhân.

Các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025, như: Đề án tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 (Nghị quyết số 88/2019/QH14 của Quốc hội, ban hành 18/11/2019) tập trung vào 10 dự án thành phần, thúc đẩy quyền tự quyết và bình đẳng dân tộc phù hợp với Điều 1, Điều 25 của ICCPR.

Khi triển khai, các dự án hỗ trợ đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt; phát triển giáo dục, y tế; và bình đẳng giới đã cải thiện đáng kể đời sống đồng bào và tạo cơ hội để người dân tiếp cận thông tin nhanh chóng và khuyến khích tham gia các hoạt động chính trị-xã hội.

Hay chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 (Quyết định số 90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 18/1/2022) ưu tiên hộ nghèo, tăng cường quyền sống và an sinh xã hội, đặc biệt ở vùng khó khăn.

Các chính sách ban hành kịp thời đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quyền con người, đặc biệt ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền dân sự và chính trị không ngừng được đẩy mạnh. Ngày 26/9/2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1252/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch tăng cường thực thi hiệu quả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc.

Các hội nghị, hội thảo, và tập huấn về ICCPR được tổ chức trên toàn quốc với sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương, và cộng đồng, từng bước nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân, đồng thời giúp các cơ quan chức năng thực thi pháp luật hiệu quả hơn, tạo nền tảng quan trọng giúp các quyền quy định trong ICCPR được hiện thực hóa sinh động trong đời sống.

Những nỗ lực của Việt Nam trong việc thực thi ICCPR nhận được sự ghi nhận tích cực từ cộng đồng quốc tế và các chuyên gia trong nước. Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc, trong các khuyến nghị sau Phiên đối thoại lần thứ 3 năm 2019, ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc hoàn thiện khung pháp luật và thực thi các quyền như quyền tự do tôn giáo, quyền xét xử công bằng, và quyền bình đẳng giới.

Đáng chú ý, tại Phiên rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV (tháng 9/2024) của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Hội đồng Nhân quyền chấp thuận Báo cáo quốc gia của Việt Nam với 271 trên tổng số 320 khuyến nghị, đạt tỷ lệ 84,7%, cao nhất trong 4 chu kỳ. Nhiều quốc gia bày tỏ tán đồng và đánh giá cao các thành tựu trong bảo đảm quyền con người, bao gồm quyền dân sự và chính trị của Việt Nam.

Mặc dù đạt nhiều thành tựu, Việt Nam vẫn đối mặt với một số luận điệu xuyên tạc, phủ nhận những nỗ lực trong việc thực thi ICCPR. Một số tổ chức, cá nhân cực đoan, thiếu thiện chí dựa trên nguồn thông tin không khách quan, không chính xác để cáo buộc Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận, giam giữ tùy tiện, và hạn chế quyền hội họp. Họ cho rằng Việt Nam hạn chế quyền tự do ngôn luận, nhất là trên không gian mạng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy người dân Việt Nam được tự do tham gia mạng xã hội và bày tỏ quan điểm, ý kiến trong khuôn khổ pháp luật.

Theo Báo cáo Digital Việt Nam 2025 của We Are Social & Meltwater, tính đến đầu năm 2025, Việt Nam có 79,8 triệu người sử dụng internet với tỷ lệ 78,8% dân số có kết nối trực tuyến. Luật An ninh mạng năm 2018 chỉ ngăn chặn các hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận để lan truyền thông tin sai lệch, kích động bạo lực, hoặc gây mất ổn định xã hội. Một số trường hợp vi phạm bị xử lý thời gian qua đều được tiến hành theo đúng trình tự pháp luật.

Một cáo buộc khác cho rằng Việt Nam giam giữ tùy tiện một số cá nhân nhưng thiếu bằng chứng cụ thể và không xem xét các quy định pháp luật hiện hành là luận điệu sai sự thật. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) quy định rõ mọi cá nhân bị bắt giữ đều có quyền được thông báo lý do, quyền có luật sư, và quyền được xét xử công bằng. Hệ thống trợ giúp pháp lý miễn phí của Việt Nam hỗ trợ rất nhiều trường hợp, nhất là các nhóm dễ bị tổn thương, phù hợp với quyền được bảo vệ theo Điều 9 và Điều 14 của ICCPR.

Những thí dụ nêu trên phần nào cho thấy cách nhìn nhận, đánh giá thiếu khách quan của một số tổ chức, cá nhân, nhằm phủ nhận những nỗ lực không ngừng của Việt Nam trong việc thực thi ICCPR. Tuy nhiên minh chứng sống động trong phát triển kinh tế-xã hội, cải cách pháp luật, và cam kết quốc tế của Việt Nam là bằng chứng thuyết phục nhất cho những thành quả và quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc bảo đảm và thúc đẩy các quyền dân sự và chính trị, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Thứ trưởng Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh cho biết: “Những thông tin, bằng chứng đưa ra tại báo cáo cũng như phiên đối thoại sẽ là câu trả lời rõ ràng, phản bác những thông tin sai lệch về tình hình quyền con người tại Việt Nam”.

Với những kết quả đạt được, chúng ta tự tin khẳng định, Việt Nam luôn là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong việc thực thi Công ước ICCPR. Từ những cải cách mạnh mẽ trong xây dựng pháp luật, triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia phù hợp với đòi hỏi giai đoạn mới, tăng cường phối hợp liên ngành, Việt Nam hoàn toàn đáp ứng các nghĩa vụ quốc tế, đồng thời hướng tới mục tiêu cao hơn: Xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và thịnh vượng, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới. Chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận, hiện việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị vẫn còn không ít khó khăn, thách thức, song Việt Nam luôn thể hiện tinh thần cầu thị, cởi mở, lắng nghe ý kiến góp ý xác đáng, tiếp tục hoàn thiện các chính sách quyền con người.

Theo chia sẻ của đồng chí Nguyễn Thanh Tịnh, Việt Nam tham gia phiên đối thoại “trên tinh thần cầu thị, cởi mở đối với các vấn đề được đề cập để tiếp thu, tiếp tục thúc đẩy những nội dung chúng ta đã thực hiện tốt. Đồng thời, có cách tiếp cận phù hợp để thúc đẩy thực thi Công ước hiệu quả hơn nữa”. Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người chính là mục tiêu của Đảng, Nhà nước ta, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước./.

(Trích nguồn: nhandan.vn)

Tinh gọn tổ chức bộ máy là đòi hỏi tất yếu từ thực tiễn

Tinh gọn bộ máy nhà nước là một cuộc cách mạng hành chính sâu rộng, thận trọng và kiên trì - xuất phát từ yêu cầu bức thiết của thực tiễn phát triển đất nước và đặt trong tổng thể tiến trình đổi mới.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm, khảo sát thực tế
tại Trung tâm dịch vụ hành chính công
phường Xuân Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh
(Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)


Những thành tựu to lớn, vĩ đại và khá toàn diện đã đạt được sau 40 năm đổi mới, cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đem đến cơ hội lịch sử đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thực tiễn đó cũng đặt ra cho Việt Nam yêu cầu cấp bách thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới.

Dù vậy, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị vẫn không ngừng lan truyền các luận điệu xuyên tạc, phản động, bóp méo bản chất của vấn đề, nhằm gây hoài nghi trong nhân dân, kích động tâm lý bất mãn, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, cản bước phát triển của đất nước. Chúng lan truyền hàng loạt thông tin, bài viết, video clip với những nội dung “sáp nhập là cách Đảng muốn thanh trừng phe cánh”; “cơ cấu bộ máy nhà nước nói là tinh gọn nhưng không thay đổi mà chỉ chuyển người từ chỗ này sang chỗ khác, chỉ gây tốn kém, phức tạp”; “việc tinh giản biên chế ở Việt Nam chỉ là hình thức, mị dân.”

Trước hết, tình trạng bộ máy cồng kềnh, chồng chéo chức năng không chỉ là vấn đề kỹ thuật tổ chức, mà ảnh hưởng trực tiếp, sâu rộng tới quyền lợi của người dân, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế. Việc tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và cơ quan đầu mối là yêu cầu cấp thiết để xây dựng một nền hành chính hiện đại, hướng tới phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Thêm vào đó, gánh nặng tài chính mà bộ máy cồng kềnh gây ra là rất lớn. Theo số liệu từ Bộ Nội vụ (công bố năm 2023), tổng số cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị là khoảng 2,5 triệu người, trong đó viên chức sự nghiệp chiếm phần lớn. Chi thường xuyên cho bộ máy hành chính, trong đó có tiền lương, phụ cấp và chi phí hoạt động, đang chiếm một phần đáng kể trong ngân sách nhà nước. Số liệu thống kê của Bộ Tài chính cho thấy, trong nhiều năm liền, chi thường xuyên luôn chiếm khoảng 65-70% tổng chi ngân sách nhà nước, trong đó phần lớn là chi trả lương, phụ cấp cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đây là gánh nặng không nhỏ đối với nền tài chính quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh chúng ta cần ưu tiên nguồn lực cho đầu tư phát triển, ứng phó với biến đổi khí hậu và các thách thức toàn cầu như dịch bệnh, chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng.

Trong bối cảnh ngân sách còn hạn chế, việc tinh giản bộ máy là điều kiện tiên quyết để giảm áp lực tài chính và sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn.Khi Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới, thì nền hành chính công hiện đại, minh bạch, linh hoạt là yếu tố then chốt để thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Hơn nữa, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP đạt 8% trở lên trong năm 2025 và hai con số trong những năm tiếp theo để hiện thực hóa quyết tâm đạt mức thu nhập cao vào năm 2045. Một bộ máy cồng kềnh, trì trệ sẽ không thể thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của thời đại số và xu hướng quản trị hiện đại.Ngoài ra, tinh giản bộ máy còn là bước đi cần thiết trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Khi bộ máy được sắp xếp hợp lý, trách nhiệm rõ ràng, cơ chế giám sát minh bạch, thì những kẽ hở cho tham nhũng sẽ bị thu hẹp. Đồng thời, đây cũng là cách để củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước.

Sự thật rõ ràng như vậy, song các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị vẫn trắng trợn xuyên tạc. Chúng rêu rao rằng đổi mới ở Việt Nam là đổi mới nửa vời vì không đổi mới chính trị và cải tổ hệ thống chính trị thì việc hợp nhất bộ máy không giải quyết gì. Đây là sự ngụy biện nguy hiểm, đánh tráo khái niệm nhằm phủ nhận nỗ lực cải cách thực chất và bài bản của Việt Nam, là sự xuyên tạc có chủ đích, mang tính kích động, nhằm làm mất lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đổi mới đang đi.

Trong suốt gần 40 năm kể từ công cuộc Đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử trên nhiều lĩnh vực. Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, hứng chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, Việt Nam đã trở thành một nền kinh tế năng động, đầy tiềm năng và triển vọng hàng đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đến năm 2024, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt hơn 476 tỉ USD, trở thành một trong 32 nền kinh tế lớn nhất thế giới, thu nhập bình quân đầu người tăng từ dưới 100 USD năm 1988 lên gần 5.000 USD năm 2024. Việt Nam lọt vào nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; nằm trong nhóm 20 nền kinh tế thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất thế giới từ năm 2019 đến nay, là một trong 10 quốc gia có lượng kiều hối lớn nhất thế giới.

Xuất khẩu đạt trên 405,53 tỉ USD, đưa Việt Nam lọt vào nhóm 20 quốc gia có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất thế giới. Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò quan trọng khi đóng góp hơn 40% GDP. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% năm 1986 xuống dưới 3% hiện nay (theo chuẩn nghèo đa chiều). Đồng thời, quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội được đảm bảo, hệ thống an sinh xã hội ngày càng hoàn thiện, bảo hiểm y tế bao phủ trên 92% dân số.

Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, trong đó có 18 đối tác chiến lược và toàn diện. Việt Nam là thành viên năng động trong các tổ chức quốc tế, tích cực đóng góp vào hòa bình, hợp tác khu vực và toàn cầu.       Việc tổ chức thành công các sự kiện lớn như Hội nghị cấp cao ASEAN, WEF, APEC,... hay đảm nhận hai nhiệm kỳ Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là minh chứng cho uy tín ngày càng lớn của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thành quả sau 40 năm đổi mới là bằng chứng hùng hồn nhất phản bác những luận điệu xuyên tạc cho rằng Việt Nam “đổi mới nửa vời” vì chưa cải cách hệ thống chính trị.       Thực tế chứng minh rằng Việt Nam đổi mới chính trị một cách có nguyên tắc, phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa và thực tiễn phát triển của đất nước. Không thể có một Việt Nam phát triển, ổn định và hội nhập quốc tế như ngày nay nếu không có sự đổi mới về tư duy chính trị, về tổ chức bộ máy, về pháp luật và quản lý nhà nước.

Đổi mới chính trị là một phần then chốt trong mô hình đổi mới toàn diện mang bản sắc Việt Nam. Lịch sử chứng minh rằng mọi cuộc cách mạng chân chính, dù là về chính trị, kinh tế hay xã hội, đều cần đến sự hy sinh - thậm chí là hy sinh rất lớn. Cuộc cách mạng tinh giản bộ máy, đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay cũng không phải ngoại lệ. Sự hy sinh ở đây là sự từ bỏ vị trí, quyền lợi, sự ổn định của cá nhân vì lợi ích lớn hơn: sự vận hành hiệu của bộ máy Nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả - phục vụ tốt hơn cho nhân dân và doanh nghiệp.

Hàng chục nghìn cán bộ, công chức, viên chức đã chấp nhận rời vị trí, chuyển công tác, nghỉ hưu trước tuổi hay từ chối tái bổ nhiệm, không phải vì họ yếu kém, mà vì họ đặt cái chung lên trên cái riêng, hiểu rằng một bộ máy cồng kềnh sẽ kìm hãm sự phát triển của cả đất nước. Tuy nhiên, trên tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau” Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện để người rời vị trí nhận được sự hỗ trợ tài chính, được chuyển đổi nghề nghiệp hoặc tiếp cận các chính sách an sinh xã hội.

Tinh gọn bộ máy nhà nước không phải là một sự thay đổi hình thức hay mang tính đối phó, càng không phải là “đổi mới nửa vời” như những luận điệu xuyên tạc mà các thế lực thù địch cố tình reo rắc. Trái lại, đây là một cuộc cách mạng hành chính sâu rộng, thận trọng và kiên trì – xuất phát từ yêu cầu bức thiết của thực tiễn phát triển đất nước và được đặt trong tổng thể tiến trình đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Vì vậy, chúng ta cần kiên quyết phản bác những luận điệu thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị; đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền làm rõ bản chất con đường đổi mới ở Việt Nam: toàn diện, có lộ trình, có chiều sâu và vì lợi ích lâu dài của nhân dân và dân tộc./.

(Trích nguồn: TTXVN)

    


Jul 7, 2025

Kịnh bản vụng về, xảo trá của Trần Bình Thản

           Trên trang “Luatkhoa”, Trần Bình Thản đã đăng tải bài viết: “Tại sao đốt lò ở Việt Nam thất bại?”, với nhiều luận điệu sai trái, thâm độc. Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, củng cố niềm tin trong xã hội, cần nhận diện và đấu tranh bác bỏ luận điệu xuyên tạc của Trần Bình Thản.

Một là, luận điệu cho rằng “chống tham nhũng ở Việt Nam mang đậm màu sắc đấu đá nội bộ” nhằm chia rẽ nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Thực tiễn cho thấy, công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam được triển khai bài bản, chặt chẽ, thận trọng, đúng nguyên tắc, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Từ Đại hội XII đến nay, hàng loạt vụ án lớn đã được đưa ra xét xử công khai, minh bạch. Chỉ tính riêng nhiệm kỳ Đại hội XIII (từ 2021 đến cuối năm 2024), đã có hơn 168.000 đảng viên bị kỷ luật, trong đó hơn 7.390 trường hợp do tham nhũng, tiêu cực; hơn 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý bị xử lý, gồm cả Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư tỉnh ủy, Bộ trưởng, Thứ trưởng, tướng lĩnh quân đội, công an. Điều đó cho thấy sự kiên quyết làm trong sạch bộ máy, củng cố niềm tin của Nhân dân, chứ hoàn toàn không phải “đấu đá phe phái” như Trần Bình Thản xuyên tạc.

Hai là, luận điệu cho rằng “Việt Nam ban hành nhiều nghị quyết, quy định, văn bản luật nhưng không cải thiện tình hình và chống tham nhũng còn “rất yếu” là phủ nhận trắng trợn những nỗ lực của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi năm 2018 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh, tăng cường minh bạch, kiểm soát tài sản, thu nhập, phòng ngừa xung đột lợi ích và tăng vai trò giám sát xã hội. Đặc biệt, Việt Nam đã tham gia Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC), tích cực hợp tác quốc tế trong điều tra, xử lý nhiều vụ án lớn có yếu tố nước ngoài. Đơn cử như các vụ án xảy ra tại Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Ngân hàng SCB, Tân Hoàng Minh, FLC,… năm 2023. Đây là những minh chứng sinh động bác bỏ luận điệu cho rằng hệ thống pháp luật chỉ nằm trên giấy, không cải thiện được tình hình tham nhũng.

Ba là, luận điệu cho rằng “Việt Nam không có cơ chế bảo vệ người tố cáo và thiếu kiểm soát độc lập” là cố tình xuyên tạc thực tiễn phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Thực tế, Luật Phòng, chống tham nhũng 2018, Luật Tố cáo 2018 và các văn bản liên quan đã quy định rất rõ về cơ chế bảo vệ người tố cáo. Nhiều vụ án tham nhũng lớn được phát hiện từ tố giác của quần chúng, báo chí, mạng xã hội. Các cơ quan kiểm tra, thanh tra, điều tra, kiểm toán, xét xử ở nước ta hoạt động theo chức năng độc lập, phối hợp chặt chẽ nhưng không chồng chéo. Năm 2024, các cơ quan tố tụng cả nước đã khởi tố mới 4.732 vụ án với 10.430 bị can về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ. Các cơ quan thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị xử lý tài chính trên 104.000 tỷ đồng, thu hồi gần 19.000 tỷ đồng tài sản tham nhũng. Những con số đó đã tự nó bác bỏ hoàn toàn sự xuyên tạc “thiếu cơ chế kiểm soát độc lập” hay “thiếu nguồn lực chống tham nhũng”.

Bốn là, luận điệu cho rằng “hệ thống bổ nhiệm cán bộ chủ yếu dựa trên mua chức mua quyền nên không có động lực chống tham nhũng thực chất” là sự quy chụp ác ý, bịa đặt nhằm hạ thấp uy tín của Đảng. Công tác cán bộ ở Việt Nam được thực hiện rất chặt chẽ, đúng quy trình, tiêu chuẩn, nguyên tắc, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Trong những năm gần đây, hàng loạt trường hợp bổ nhiệm sai quy định, vi phạm pháp luật đã bị phát hiện, xử lý nghiêm minh, kể cả cán bộ cấp cao thuộc diện Trung ương quản lý. Riêng nhiệm kỳ Đại hội XIII, đã có 141 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý bị xử lý kỷ luật, trong đó có 31 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương; 24 sĩ quan cấp tướng bị xử lý. Nhiều cán bộ tự giác xin từ chức là minh chứng thể hiện sự chuyển biến tích cực trong công tác cán bộ của Đảng.

Tóm lại, công cuộc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam là cuộc chiến lâu dài, phức tạp, nhưng với sự vào cuộc quyết liệt của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, kết quả đạt được là rất rõ rệt. Những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành tựu đó chỉ càng cho thấy thủ đoạn thâm độc của Trần Bình Thản nhằm phá hoại uy tín, sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.

Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân phải kiên quyết, chủ động đấu tranh phản bác mọi luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)

 

Jul 6, 2025

Miễn học phí - Chính sách nhân văn hợp “lòng dân, ý Đảng”

          Bóp méo, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách là những luận điệu, chiêu trò quen thuộc mà Việt Tân và các thế lực thù địch, phản động sử dụng để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nhất là khi Đảng, Nhà nước ta thực hiện miễn học phí cho học sinh các trường công lập từ bậc học mẫu giáo đến hết trung học phổ thông, chúng xuyên tạc rằng: “giữa bão thuế phí, giảm học phí là trò xoa dịu dư luận”. Song, thực tiễn lại trái với những xuyên tạc của chúng, bởi lẽ:

1. Miễn học phí là một trong những quyết sách rất nhân văn và có ý nghĩa lớn, chứ không thể đong đếm bằng những con số. Cần khẳng định rằng, miễn học phí là một trong những quyết sách rất nhân văn và có ý nghĩa lớn, một quyết định hợp lòng dân của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Theo thống kê, hiện cả nước có 23,2 triệu học sinh (chưa bao gồm học sinh học tại các trung tâm giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên), trong đó: 3,1 triệu học sinh mầm non dưới 5 tuổi; 1,7 triệu học sinh mầm non 5 tuổi; 8,9 triệu học sinh tiểu học; 6,5 triệu học sinh trung học cơ sở và 3 triệu học sinh trung học phổ thông. Miễn học phí tạo động lực để hàng triệu gia đình có thêm điều kiện chăm lo, đầu tư cho việc học tập cho con em; giúp giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, nhất là ở các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa, làm cho giáo dục công bằng và bình đẳng hơn. Qua đó, tác động tích cực đến chất lượng dân số, giáo dục và sự phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Miễn học phí cũng mở ra cho ngành giáo dục rất nhiều cơ hội để nâng cao chất lượng toàn diện và môi trường học đường sẽ sớm được văn minh, lành mạnh hơn, góp phần xây dựng một xã hội tiến bộ và phát triển bền vững, tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội, thể hiện tính ưu việt của chế độ, đúng với chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với giáo dục, đào tạo và phù hợp với xu thế chung của các nước phát triển.

2. Miễn học phí là bước tiến cụ thể hóa chủ trương “giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng, Nhà nước ta, chứ không phải là trò xoa dịu dư luận. Như chúng ta đã biết, xuyên suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn kiên định quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Mới đây nhất, tại Kết luận số 91-KL/TW, ngày 12/8/2024 của Bộ Chính trị một lần nữa nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân” và “đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội”. Đặc biệt, Kết luận số 91-KL/TW cũng chỉ rõ chủ trương: “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm đủ điều kiện cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục và đào tạo; bảo đảm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục, đào tạo tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước như Nghị quyết số 29-NQ/TƯ đã đề ra. Đồng thời, kịp thời điều chỉnh tăng mức chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo phù hợp với tăng trưởng của nền kinh tế”.

Trong bối cảnh Việt Nam đã chuyển từ một quốc gia có thu nhập thấp sang thu nhập trung bình, việc miễn học phí toàn quốc đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc đảm bảo mọi trẻ em, bất kể hoàn cảnh kinh tế gia đình, đều có quyền tiếp cận giáo dục cơ bản. Đây là một quyết sách đột phá, không chỉ dừng ở việc miễn học phí cho tiểu học (theo Nghị định 81/2021/NĐ-CP) hay một số đối tượng đặc thù như hộ nghèo, dân tộc thiểu số, mà mở rộng ra toàn bộ học sinh phổ thông công lập – một bước đi chưa từng có trong lịch sử giáo dục Việt Nam, trực tiếp gỡ bỏ rào cản tài chính, vốn là nguyên nhân chính khiến nhiều trẻ em, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, phải bỏ học. Miễn học phí sẽ là “cú hích” để đảm bảo quyền học tập cơ bản cho mọi trẻ em. Đồng thời, thể hiện rõ trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc chăm lo cho tương lai của thế hệ trẻ. Đây là bước đi chiến lược nhằm hiện thực hóa công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách vùng miền và phát triển nguồn nhân lực bền vững, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Chính sách miễn học phí cũng thể hiện tính ưu việt của chế độ ta là “không để ai bị bỏ lại phía sau”, thực hiện đúng tinh thần bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng, trong đó có giáo dục theo Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

Tóm lại, miễn học phí cho học sinh công lập từ mầm non đến hết giáo dục phổ thông của Đảng, Nhà nước ta là chính sách thiết thực, mang ý nghĩa sâu sắc và giàu tính nhân văn. Mỗi người chúng ta cần nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh với mưu đồ xuyên tạc chính sách miễn học phí của Việt Tân và các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam./.

 (Trích nguồn: nhanvanviet.com)

Jul 1, 2025

Chúng ta vẫn là người Việt Nam khi địa chỉ hành chính thay đổi

           Tre Việt - Ngày 01/7, trang facebook Việt Tân đăng status “Sau một đêm tỉnh giấc, chúng ta sẽ mất rất nhiều thứ: mất tỉnh, mất huyện, mất xã”, nhằm dụng ý kích động, xuyên tạc thời khắc thiêng liêng và trọng đại của dân tộc khi chúng ta chính thức đồng loạt vận hành bộ máy chính quyền hai cấp tại 34 tỉnh, thành phố trong cả nước - một chỉnh thể hành chính mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Cần khẳng định ngay rằng, công cuộc sắp xếp tổ chức, tinh gọn bộ máy hành chính của hệ thống chính trị đang được triển khai sâu rộng trong toàn hệ thống chính trị với tinh thần quyết liệt và khẩn trương. Việc thu gọn đầu mối, xóa bỏ chồng chéo chức năng, giảm tầng nấc trung gian và xây dựng mô hình chính quyền ba cấp không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là bước đi chiến lược nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Dù khó khăn, Trung ương đã khẳng định: “Khó mấy cũng phải làm”, bởi đây là thời điểm vàng, khi đất nước đã hội đủ điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội sau gần 40 năm đổi mới. Mục tiêu cao nhất là kiến tạo một nền hành chính tinh gọn, phục vụ người dân ngày càng tốt hơn và tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Tinh thần cải cách này lan tỏa mạnh mẽ từ Trung ương đến địa phương, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Các chủ trương lớn đang nhanh chóng đi vào thực tiễn với khí thế “chỉ bàn làm, không bàn lùi”, trở thành mệnh lệnh hành động của cả hệ thống chính trị. 

Hôm nay, ngày 01/7, Quyết định “Sắp xếp lại giang sơn” vì sự phát triển bền vững và khoa học của Đảng, Nhà nước ta bắt đầu trở thành hiện thực. Đây là thời khắc thiêng liêng và trọng đại của dân tộc khi bộ máy chính quyền địa phương hai cấp tại 34 tỉnh, thành phố trong cả nước chính thức vận hành. Sự kiện đánh dấu một chỉnh thể hành chính mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tầm vóc chiến lược đặc biệt lớn lao, được thiết kế cho cả hiện tại và tương lai, nhằm kiến tạo mô hình và không gian phát triển mới lâu dài và bền vững. Việc sáp nhập đơn vị hành chính không đơn thuần là sắp xếp lại bản đồ. Đó là một bước chuyển mang tính thể chế sâu sắc, khi Việt Nam chính thức bỏ cấp chính quyền trung gian ở cấp huyện - mô hình vốn tồn tại từ thời thuộc địa, từng phục vụ nhiều hơn cho quản trị hành chính chứ không tối ưu cho quản trị phát triển. Giờ đây, chính quyền cấp tỉnh và cấp xã sẽ trực tiếp “gần dân hơn, sát việc hơn”, loại bỏ tầng nấc trung gian, giảm chi phí bộ máy và tăng hiệu quả phục vụ. Đây là một thay đổi lớn, có thể ban đầu gây lẫn lộn về tên gọi, thủ tục, thậm chí là bâng khuâng trong tâm thức. Nhưng lịch sử luôn đòi hỏi dũng cảm - dám từ bỏ cái cũ để kiến tạo cái mới, nếu cái mới ấy phục vụ tốt hơn cho nhân dân, cho đất nước.

Cũng chính vì vậy mà, hàng triệu người dân từ Bắc chí Nam thức dậy trong một “địa chỉ hành chính mới” - tên tỉnh đổi khác, tên huyện không còn. Nhưng có một điều không đổi, không thể đổi: chúng ta vẫn là người Việt Nam, cùng chung một vùng trời quê hương, một dòng máu, một niềm tự hào không thể chia cắt. Nhiều người có thể bùi ngùi khi tên gọi một huyện, một xã, một tỉnh từng gắn với ký ức nay chỉ còn là dòng lịch sử. Nhưng chính trong giây phút ấy, chúng ta phải nhận ra: địa linh không nằm ở tên gọi, mà ở tinh thần và con người gắn bó với mảnh đất đó. Dù bạn sống ở bất cứ một xã của tỉnh mới, hay ở bất kỳ một đơn vị hành chính nào thì bạn đều đang sống dưới bầu trời Tổ quốc Việt Nam thân yêu. Không có mảnh đất nào bị mất đi, không có cộng đồng nào bị lãng quên. Mọi đổi thay đều để phục vụ tốt hơn cho người dân ở chính nơi ấy - có dịch vụ công nhanh hơn, có bộ máy hiệu quả hơn.

Do đó, luận điệu xuyên tạc, kích động Việt Tân rằng “chúng ta sẽ mất rất nhiều thứ: mất tỉnh, mất huyện, mất xã”, chẳng lừa bịp được ai, mà còn trở thành lố bịch, luận điệu đo nhất định sẽ bị phá sản. Bởi vì: “khi địa chỉ hành chính thay đổi chúng ta vẫn là người Việt Nam”./.