Dec 30, 2022

Giai cấp tư sản không còn bóc lột công nhân mà “bóc lột máy móc” - quan điểm hoàn toàn phi lý

 Tre Việt - Ngày nay, với sự phát triển nhanh, mạnh của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, máy móc và các thiết bị robot đã dần thay thế con người trong lao động sản xuất; nhiều nhà máy, xí nghiệp máy móc còn giữ vai trò quan trọng, khiến cho lực lượng lao động thuyên giảm. Lợi dụng vấn đề này, thời gian qua, có quan điểm cho rằng, giai cấp tư sản không còn bóc lột công nhân mà “bóc lột máy móc”. Có thể nhận thấy, đây là cách đánh tráo khái niệm, làm cho mọi người lầm tưởng là giai cấp tư sản là tiến bộ, không còn bóc lột công sức của người lao động, từ đó phê phán chế độ xã hội chủ nghĩa. Tre Việt cho rằng, quan điểm hoàn toàn phi lý, bởi:

Thứ nhất, hiện nay trong các nhà máy, xí nghiệp, việc hiện đại hóa các trang thiết bị, mãy móc sản xuất là nhu cầu tất yếu, nhờ máy mọc và các thiết bị hiện đại mà sản phẩn được làm ra nhiều hơn, từ đó mang lại nguồn thu cho các nhà máy, xí nghiệp; đồng thời cũng giảm bớt hoạt động chân tay của người lao động. Điều đó gây ra một quan niệm sai lầm, phi lý là máy móc cũng tạo ra giá trị thặng dư và giai cấp tư sản không bóc lột công nhân mà bóc lột máy móc. Tuy nhiên, máy móc dù có hiện đại đến đâu cũng cần đến người công nhân “hà hơi”, “tiếp sức”, máy móc không tự nó chạy được mà phải có người cho nó chạy, phải theo dõi quá trình vận hành để xử lý các sự cố. Nói cách khác, nếu không có người công nhân giám sát điều hành thì máy móc cũng không thể hoạt động, khi đó máy móc, thiết bị cũng chỉ là đống sắt vụn. Do đó, giá trị thặng dư nhìn bên ngoài có nhiều người lầm tưởng là máy móc tạo ra nhưng thực chất giá trị thặng dư mà các nhà máy, xí nghiệp được hưởng lại do người công nhân, những người lao động chân chính tạo ra.

Thứ hai, đúng là trong giai đoạn tự động hóa, sức lao động của người công nhân được giảm một cách đáng kể, máy móc không những thay thế lao động cơ bắp mà còn thay thế cả một phần lao động trí óc của con người. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng sản xuất tự động hóa không phải dùng ít lao động chân tay đến mức như người ta tưởng, thậm chí còn nhiều hơn. Thực tế xã hội hiện đại ngày nay, nhờ máy móc mà các lao động cơ bắp được giảm, nhưng số người lao động phải đi làm thuê trong các nhà máy, xí nghiệp cho các ông chủ tư sản vẫn cứ tăng lên. Phải chăng các nhà tư bản hiện đại phải chi trả tiền lương cho công nhân quá lớn nên họ lựa chọn các địa điểm đầu tư tại những khu vực công nhân vừa có tay nghề cao, lại vừa trả tiền công thấp, rồi từ đó cho rằng máy móc tạo ra giá trị thặng dư.

Vậy nên, không có chuyện máy móc thay thế người lao động tạo ra giá trị thặng dư và “luận điểm giai cấp tư sản bóc lột máy móc” là hoàn toàn phi lý./.

Dec 22, 2022

Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối trung thành và giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng

             Tre Việt – Cứ vào dịp Quân đội ta kỷ niệm Ngày thành lập thì các thế lực thù địch, phản động lại ra tăng các luận điệu và hoạt động chống phá; nhất là trên không gian mạng. Nội dung chủ yếu chúng tập trung công kích vào sự trung thành của Quân đội và sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, v.v. Bởi vậy, chúng ta cần nêu cao cảnh giác, nhận diện đúng và kiên quyết đấu tranh bác bỏ mọi xuyên tạc.

Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam ra đời ngày 22/12/1944 từ những tổ chức vũ trang tiền thân trong phong trào đấu tranh cách mạng giành độc lập, tự do của dân tộc, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp sáng lập, tổ chức, lãnh đạo. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định tính tất yếu, đặc thù ra đời và vai trò to lớn của QĐND Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Và, về bản chất, QĐND Việt Nam là Quân đội kiểu mới, công cụ bạo lực vũ trang của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.


Là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa, QĐND Việt Nam cùng với các giai cấp, thành phần của toàn dân tộc tiến hành đấu tranh chống lại các thế lực xâm lược để giành độc lập dân tộc và thực hiện thống nhất nước nhà. Sau khi đất nước độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, QĐND Việt Nam là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tế lịch sử đấu tranh cách mạng cho thấy, từ khi ra đời đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội ta luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao phó. Bản chất giai cấp công nhân và truyền thống vinh quang của Quân đội ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Nhưng thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, có sự đóng góp rất quan trọng của QĐND Việt Nam.

Là Quân đội kiểu mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vì vậy, QĐND Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc. Bản chất đó được biểu hiện sâu sắc ở mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; hệ tư tưởng và nguyên tắc tổ chức xây dựng Quân đội. Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước xã hội chủ nghĩa quyết định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; quyết định các nguyên tắc tổ chức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Hệ tư tưởng trong QĐND Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.  

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã hiến định chương IV về bảo vệ Tổ quốc, bao gồm các Điều 64 đến Điều 68 đã thể hiện đầy đủ, sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc. Bản chất chính trị của lực lượng vũ trang nhân dân nói chung và QĐND Việt Nam nói riêng, thể hiện ở những nội dung cụ thể sau. Thứ nhất, vai trò của QĐND Việt Nam đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Điều 64 quy định: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh. Như vậy, Hiến pháp đã xác định rõ QĐND Việt Nam cùng với các lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, chức năng, nhiệm vụ của QĐND Việt Nam. Điều 65 quy định: Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Thứ ba, phương hướng xây dựng QĐND Việt Nam. Điều 66, 67, 68 quy định: Nhà nước xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Thứ tư, quy định trách nhiệm của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng QĐND Việt Nam. Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh; thực hiện chính sách hậu phương Quân đội; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức phù hợp với tính chất hoạt động của QĐND; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc.

Cần khẳng định rõ: kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; kiên định, giữ vững nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo, Nhà nước quản lý QĐND Việt Nam - là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội và là nhân tố bảo đảm chính trị của Quân đội ta.

Các thế lực thù địch, phản động từ trước đến nay cũng hiểu rất rõ điều này. Do vậy, chúng luôn tìm mọi cách công kích, phá hoại, nhằm tiến tới loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, tạo nguyên cớ cho các thế lực có thâm thù với cách mạng tiến hành “cuộc chiến không đánh mà thắng”, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, việc nhận diện kịp thời và phê phán sự phi lý, phản động của các thế lực thù địch hòng chia rẽ Quân đội với Đảng là việc làm cấp thiết trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Phát huy sức mạnh tổng hợp các tổ chức, các lực lượng trong phòng, chống các luận điệu chống phá Quân đội của các thế lực thù địch, phản động, suy cho cùng là bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với QĐND Việt Nam./.

 

Bức tranh tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam - bác bỏ mọi cáo buộc phi lý

Tre Việt - Trong 5 năm qua (2017 - 2022), Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ vẫn định kỳ ra báo cáo thường niên về tự do tôn giáo toàn cầu. Họ cho mình quyền nhận xét, đánh giá phê phán về tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo của Việt Nam và một số quốc gia khác. Họ sử dụng thông tin tài liệu cũ hoặc không chính thống từ các nhóm, phái tôn giáo chưa được nhà nước công nhận, số chức sắc cực đoan bất mãn với chế độ, định kiến với Đảng, Nhà nước để tiếp nhận thông tin sai lệch, đưa vào báo cáo đánh giá.

Một số tổ chức tìm cách khuyến khích, cổ vũ cho các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, không cần xin phép, đăng ký chính quyền, thúc đẩy các hoạt động “tà đạo, đạo lạ” ở các vùng sâu, vùng xa, gia tăng hoạt động mê tín dị đoan, trái thuần phong mỹ tục, trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Giáo hội và xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, với âm mưu muốn giáo dân chống đối chính quyền. Họ kích động với luận điệu đây là quyền con người “quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do tôn giáo”; xuyên tạc Luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, coi đó là “bước thụt lùi”, “bóp nghẹt tôn giáo” không phù hợp với công ước quốc tế về quyền con người, v.v. Họ kiến nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam trở lại những nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo (CPC), “gây sức ép và hối thúc Việt Nam cho phép tất cả các nhóm, phái tôn giáo chưa được công nhận hoạt động một cách tự do; giảm can thiệp của chính quyền vào các công việc nội bộ của các nhóm tôn giáo đã được công nhận và nhấn mạnh tiến bộ về tự do tôn giáo có ý nghĩa quan trọng đối với việc cải thiện quan hệ song phương”, v.v.

Cần khẳng định rõ: đây là những cáo buộc hết sức phi lý, một chiều, không dựa trên thực tiễn bức tranh tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam (!).


Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo. Ở Việt Nam có những tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hoà Hảo, Cao đài,…) song hành cùng các tôn giáo du nhập từ bên ngoài (Công giáo, Phật giáo, Tin lành,…). Các tôn giáo luôn luôn giữ mối đoàn kết và tôn trọng niềm tin tôn giáo lẫn nhau, đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo thống kê chưa đầy đủ, Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng và tôn giáo (trong hàng nghìn tín ngưỡng thì tín ngưỡng phổ biến là thờ cúng ông bà tổ tiên và tín ngưỡng thờ Mẫu). Tính đến nay, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Hằng năm, Việt Nam có gần 13.000 lễ hội, gồm 05 loại: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài, lễ hội văn hóa – thể thao và ngành nghề. Đến nay, Việt Nam có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ (chiếm 27% dân số), 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận hoặc cấp chứng nhận đăng ký hoạt động. Cả nước hiện có hơn 57,4 ngàn chức sắc, trên 147 ngàn chức việc, hơn 29,6 ngàn cơ sở thờ tự. Số lượng tín đồ theo các tôn giáo hiện nay: Phật giáo 15,1 triệu; Công giáo 7,1 triệu; Cao đài 1,1 triệu; Tin lành 1 triệu; Hồi giáo 80.000; Phật giáo Hòa hảo 1,3 triệu, còn lại là các tôn giáo khác (Tịnh độ Cư sĩ Phật hội, Tứ ân Hiếu nghĩa, Bà La môn, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh sư đạo, Minh lý đạo,…).

Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, dù còn bộn bề công việc, ngày 03/9/1945, tại phiên họp của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào theo đạo. Người nói: “Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương – giáo đoàn kết”. Ngày 14/6/1955, Người đã ký sắc lệnh 234/SL xác định “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Người từng kêu gọi các tôn giáo hãy xóa bỏ hiềm khích, kỳ thị đoàn kết cùng toàn dân lo cho nền độc lập của nước nhà và lịch sử đã chứng minh, dù trong điều kiện khó khăn của đất nước nhưng chức sắc các tôn giáo, đồng bào có đạo giáo khẳng định rõ sự gắn bó đồng hành với dân tộc.

Ngày nay, ở khắp mọi miền của đất nước, đặc biệt là tại các thành phố, các trung tâm tôn giáo lớn, như: Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình, Tây Ninh, Cần Thơ,… các sinh hoạt tôn giáo diễn ra khá sôi nổi, đa dạng và phong phú. Các ngày lễ trọng, các lễ nghi, lễ hội tôn giáo được tổ chức ngày càng trang nghiêm, quy mô hơn trước và thu hút ngày càng đông đảo tín đồ tham dự. Nhiều sinh hoạt tôn giáo đã trở thành sinh hoạt văn hóa cộng đồng được đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia với tinh thần phấn khởi, yên tâm và tin tưởng. Các lễ hội như lễ Phật đản của Phật giáo, lễ Noel của Công giáo và đạo Tin lành, lễ kỷ niệm ngày khai đạo của đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, tháng ăn chay Ramadan của Hồi giáo,… được tổ chức trọng thể, trang nghiêm và đảm bảo an ninh trật tự. Lễ hội của nhiều tôn giáo đều trở thành lễ hội chung vui của toàn dân tộc như lễ Noel, lễ hội La Vang. Đặc biệt, lễ Phật đản của Phật giáo đã chính thức được UNESCO công nhận là một trong những lễ hội tôn giáo lớn của thế giới. Một số lễ hội mang tính thế tục được dư luận quan tâm đánh giá cao, như: Lễ cầu siêu cho những người đã hy sinh trong cuộc kháng chiến do Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức năm 2005; Đại hội hành hương La Vang lần thứ 27 kết hợp “Năm Thánh thể” với quy mô lớn do Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức; Lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội thánh do Tổng hội Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) tổ chức năm 2005, v.v. Bên cạnh những giá trị đạo đức, các tôn giáo còn có hệ thống những lễ hội rất phong phú. Trước đây, việc tổ chức và tham gia lễ hội là công việc nội bộ giáo hội và tín đồ trong đạo; ngày nay, rất nhiều lễ hội tôn giáo không còn là chuyện riêng của từng tôn giáo mà nó có sức lan tỏa, ảnh hưởng lớn trong cộng đồng xã hội như Lễ Giáng sinh, Phục sinh của đạo Công giáo, đạo Tin lành; Lễ Phật đản, Vu lan của Phật giáo; Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung của Hội thánh Cao đài Tây Ninh, v.v. Và Lễ Giáng sinh chỉ là một trong số tám ngàn lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo trong một năm ở Việt Nam. Thực tế không khí sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong các tầng lớp nhân dân những năm qua ngày càng sôi động và có chiều hướng gia tăng. Cứ nhìn vào các lễ hội tôn giáo, các buổi lễ trọng của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian cũng có thể nhận rõ, những sinh hoạt này không chỉ là sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng trong các cộng đồng của đồng bào có đạo mà còn đang trở thành ngày hội thu hút đông đảo người dân tham gia.

Thực tiễn sinh động trên cho thấy: Ðảng và Nhà nước Việt Nam đã luôn tạo mọi điều kiện để nhân dân được tự do tham gia các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng. Việc đa dạng các hoạt động tôn giáo là minh chứng cho quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã và đang được bảo đảm; không chỉ đối với đồng bào theo đạo Công giáo, quy mô và hoạt động tôn giáo của đồng bào theo các tôn giáo khác cũng ngày càng tăng và diễn ra sôi động, đời sống tâm linh của người dân luôn được chính quyền quan tâm.

Những thông tin, luận điệu sai lệch, xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở Việt Nam mà các tổ chức thiếu thiện chí đưa ra tác động đến suy nghĩ, tình cảm của chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo, tạo sự hoài nghi về chính sách, pháp luật về tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Vậy tiêu chí, tiêu chuẩn của Ủy ban Tự do tôn giáo Quốc tế Mỹ là gì? Họ đại diện cho ai để phê phán, đánh giá về tự do tôn giáo của Việt Nam, khi mà các phê phán của họ chỉ là sự lạc lõng, không được chức sắc tôn giáo đồng tình?

Thay lời kết, xin dẫn phát biểu của Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng (chiều 15/12/2022) khẳng định: Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu khách quan, cũng như thông tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam. Chính sách nhất quán của Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền con người, cũng như quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, điều này đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật của Việt Nam và được bảo đảm tôn trọng trên thực tế. Và “Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam về bảo đảm quyền con người, bảo đảm tự do tín ngưỡng tôn giáo cho người dân đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Việt Nam sẵn sàng trao đổi với Mỹ về các vấn đề hai bên cùng quan tâm trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, đóng góp vào thúc đẩy quan hệ Đối tác toàn diện giữa hai nước”./.

Dec 17, 2022

Cần chấm dứt hành động làm phương hại quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ

           Tre Việt - Theo bài viết: “Việt Nam lên tiếng về việc bị Mỹ đưa vào danh sách cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo được đăng tải trên kênh VOA tiếng Việt, ngày 15/12 thì trong Thông cáo báo chí mới đây, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đã công bố danh sách các quốc gia bị Hoa Kỳ đưa vào danh sách theo dõi đặc biệt về quyền tự do tôn giáo, trong đó có Việt Nam “vì đã tham gia hoặc dung túng cho những vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo”. Thông tin này đã  phản ánh không đúng khách quan, không chính xác về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam. Bởi, thực tiễn minh chứng, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn có chính sách nhất quán, tôn trọng và bảo đảm quyền con người cũng như quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Bằng chứng là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương, đường lối về công tác tôn giáo phù hợp với đặc điểm của đất nước đa tôn giáo. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, các chính sách về công tác tôn giáo,… tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tôn giáo. Đồng thời, luôn nỗ lực bảo đảm cho mọi công dân được tự do tham gia các hoạt động tôn giáo theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Cùng với đó, trong bộ máy Nhà nước đã có hệ thống các cơ quan, tổ chức trực tiếp theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động tôn giáo, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các tôn giáo. Hiện nay, chỉ tính riêng trong lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ (chiếm hơn 27% dân số), 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận hoặc cấp chứng nhận đăng ký hoạt động. Trên cả nước hiện có hơn 57.400 chức sắc, hơn 147.000 chức việc, hơn 29.600 cơ sở thờ tự. Những con số “biết nói” đó là minh chứng, “bức tranh” sinh động không thể phủ nhận về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Trong bài viết có nhắc đến một số vụ việc đã bị các cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam bắt giữ, xét xử trong thời gian qua, như: vụ Tịnh Thất Bồng Lai, ông Phan Văn Thu, linh mục Trần Ngọc Thanh. Thực chất, đây là những công dân đã lợi dụng tự do tôn giáo, đội lốt tôn giáo, có những hành động vi phạm pháp luật, nên bị các cơ quan pháp luật điều tra, bắt giữ với đầy đủ chứng cứ, tội danh rõ ràng và đưa ra xét xử công khai, công bằng, đúng người, đúng tội chứ hoàn toàn không có chuyện: “đây là những người liên quan đến thực hành tôn giáo, tù nhân tôn giáo”. Vì thế, nếu chỉ dựa vào những vụ việc trên để tạo cớ rồi cho rằng: “vì đã tham gia hoặc dung túng cho những vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo”, đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là thiếu chính xác, phiến diện.

Về phía Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi với phía Hoa Kỳ về các vấn đề mà hai bên cùng quan tâm, nhất là vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo,… trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, nhằm đóng góp vào quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước ngày càng phát triển tốt đẹp. Song,việc làm trên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại đang làm phương hại đến quan hệ hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ. Bởi vậy, Tre Việt lên án hành động này, yêu cầu cần chấm dứt, không tái diễn./. 

Dec 9, 2022

Lê Nguyễn – kẻ lạc loài đi ngược đạo lý của dân tộc Việt Nam

          Tre Việt - Mới đây, trên mạng xã hội “Danlambao” Lê Nguyễn đã giật tít: “Đừng cố nhồi nhét tư tưởng, đạo đức dân tộc vào đầu Hồ Chí Minh” với nội dung phủ nhận thành quả đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc của nhân dân ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài viết của Lê Nguyễn thể hiện rõ tư tưởng chống cộng điên cuồng, mù quáng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Với tư tưởng, quan điểm của một kẻ chống cộng, trong bài viết Lê Nguyễn không chỉ xúc phạm đến thân thế, sự nghiệp, công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn thể hiện đạo đức, thái độ ứng nhân, xử thế rất thiếu văn hóa, xa lạ và đi ngược với truyền thống yêu nước, văn hiến, đạo lý của dân tộc Việt Nam.

Cho đến nay, hàng trăm triệu người trong xã hội đều biết khá rõ về tư tưởng, đạo đức, cuộc đời hoạt động cách mạng trong sáng của Hồ Chí Minh; đã có vô số bài nói, bài viết của các nhà khoa học, nhiều cuộc hội thảo quốc tế, nhiều công trình khoa học lớn đã nghiên cứu, ghi nhận, tôn vinh cuộc đời, công lao to lớn của Hồ Chí Minh đối với nhân dân lao động Việt Nam và nhân loại cần lao trên thế giới. Đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất lớn: tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn cho cách mạng Việt Nam; sáng lập, giáo dục, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một chính đảng Mác xít chân chính; sáng lập, giáo dục, rèn luyện Quân đội nhân dân Việt Nam; sáng lập, xây dựng Nhà nước vô sản của dân, do dân, vì dân; cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân đánh bại thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; quyết định đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội, v.v.

Tư tưởng, đạo đức, cuộc đời hoạt động trong sáng “không gợn chút riêng tư” của Hồ Chí Minh đã và đang được nhân dân Việt Nam, nhân dân tiến bộ trên thế giới viết lại, kể lại, với tình cảm biết ơn, sự ngưỡng mộ, kính trọng; thế giới tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất”. Những giá trị cách mạng, khoa học, nhân văn trong tư tưởng, đạo đức, cuộc đời cách mạng trong sáng hết mình vì nước, vì dân của Hồ Chí Minh đang tiếp tục, tỏa sáng, thu hút hàng chục triệu người dân Việt Nam đón nhận, học tập và làm theo.

          Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc, của Đảng ta, là niềm tự hào của mọi thế hệ người Việt Nam, là sức mạnh tinh thần, trở thành động lực thúc đẩy chúng ta trong đổi mới, hội nhập để phát triển. Tư tưởng, đạo đức và phong cách của Hồ Chí Minh, trở thành giá trị chuẩn mực và định hướng giá trị trong giáo dục, hành động cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa.

          Nội dung của bài viết “Đừng cố nhồi nhét tư tưởng, đạo đức dân tộc vào đầu Hồ Chí Minh” trên mạng xã hội “Danlambao” của Lê Nguyễn là hết sức độc địa, trái ngược hoàn toàn với sự thật lịch sử; là sự vu khống trắng trợn, bôi nhọ, làm tổn hại thanh danh, uy tín, tình cảm yêu thương, thủy chung mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh đã dành cho nhân dân Việt Nam. Rõ ràng, Lê Nguyễn đích thị cùng “họ hàng”, cùng “dòng máu” phản động với những kẻ đã từng làm tay sai cho bọn đế quốc, thâm thù cách mạng. Vì vậy, cần vạch trần chân tướng những kẻ lạc loài đi ngược đạo lý của dân tộc Việt Nam như Lê Nguyễn, đấu tranh loại trừ chúng ra khỏi tiến trình xây dựng, phát triển đất nước./.

 

 

Dec 6, 2022

Thực tiễn vấn đề nhân quyền tại Việt Nam bác bỏ mọi xuyên tạc

          Tre Việt - Thông qua không gian mạng, các hội nhóm phản động ngoài nước cấu kết với trong nước gia tăng các hoạt động lợi dụng mạng xã hội để tán phát các clip có nội dung kích động, xuyên tạc, vu cáo chính quyền Việt Nam đàn áp, bắt bớ “người biểu tình yêu nước”, đòi quốc tế can thiệp, hậu thuẫn. Một số hội nhóm phản động từ hải ngoại thường xuyên phát tán các clip kêu gọi người dân xuống đường biểu tình, tiêm nhiễm các tư tưởng chống đối cực đoan, quá khích cho một số nhóm đối tượng để thực hiện hành vi phá hoại, bạo loạn.

Thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam
 trên không gian mạng của các thế lực thù địch
ngày càng tinh vi (Ảnh: Minh Họa)

Theo số liệu của Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông, trong 05 tháng đầu năm 2022, có hơn 65.000 nội dung liên quan đến vấn đề nhân quyền mà các thế lực thù địch tập trung chống phá, như: (1). Tám tổ chức phản động (“Mạng lưới nhân quyền Việt Nam”, “Người bảo vệ nhân quyền”, “Đại Việt quốc dân Đảng”, “Đảng nhân bản xã hội”, “Họp mặt dân chủ”, “Lực lượng dân tộc cứu nguy Tổ quốc”, “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam”, “Đài phát thanh Đáp lời sông núi”) kêu gọi các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc không bỏ phiếu cho Việt Nam làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025; (2). Tổ chức về Nhân quyền Freedom House xếp Việt Nam vào nhóm các quốc gia không được tự do sử dụng in-tơ-nét. Nhiều năm qua tổ chức này vẫn giữ quan điểm cho rằng Việt Nam là quốc gia mà người dân không được sử dụng in-tơ-nét. Trong khi con số thực tế cho thấy, Việt Nam là nước có tỷ lệ người dân sử dụng in-tơ-nét thuộc top đầu trên thế giới; (3). Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) công bố Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới năm 2022 nhân Ngày Tự do Báo chí Thế giới ngày 03/5/2022 đã xếp Việt Nam ở vị trí 174/180 quốc gia và vùng lãnh thổ; (4). Các tổ chức, cá nhân phản động trong và ngoài nước tiếp tục lợi dụng cuộc xung đột quân sự Nga – U-crai-na để phát tán nhiều bài viết, hình ảnh, clip, biểu tình phản đối chính quyền Việt Nam ủng hộ chiến tranh xâm lược; (5). Công bố thư ngỏ kêu gọi các nước thành viên Liên hiệp quốc không bỏ phiếu cho Việt Nam và Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2023 – 2025; (6). Cơ quan nghiên cứu của Nghị viện châu Âu công bố bản báo cáo về các hoạt động hỗ trợ những nhà hoạt động nhân quyền trên toàn thế giới; trong đó có những thông tin, nhận định thiếu khách quan, công bằng, dựa trên một số thông tin sai lệch, không có cơ sở, không phản ánh đúng thực tế về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Nghị viện châu Âu cho rằng, họ đã gặp nhiều giới hạn trong việc bảo vệ những nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam; cáo buộc Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền”, “đàn áp, bỏ tù người vô tội”; thậm chí, cho rằng Việt Nam là “chế độ đàn áp”. Trên thực tế, danh sách những “nạn nhân” được liệt kê trong báo cáo này lại là những đối tượng chống phá cộm cán, như: Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Tiến Trung hay gần đây nhất là Phạm Thị Đoan Trang. Đây không phải là lần đầu Nghị viện châu Âu đưa ra những đánh giá, nhận định sai lệch, thiếu khách quan, thiếu thiện chí về tình hình nhân quyền tại Việt Nam.

Thực tiễn vấn đề nhân quyền tại Việt Nam là minh chứng bác bỏ mọi xuyên tạc

Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và công cuộc phát triển đất nước và luôn nỗ lực vì mục tiêu nâng cao đời sống, quyền thụ hưởng của người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau. Các quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam, được bảo vệ và thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai trong thực tiễn. Ở Việt Nam, tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, bởi bất cứ ai và vì bất cứ lý do gì, đều phải bị xét xử nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và bảo đảm sự thụ hưởng đầy đủ các quyền và tự do của mỗi người dân trong một xã hội an toàn, trật tự và công bằng. Không ai bị bắt giữ, xét xử vì thực hiện các quyền con người một cách chính đáng. Đối với trường hợp, như: Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Tiến Trung hay Phạm Thị Đoan Trang được nhắc đến trong báo cáo của Nghị viện Châu Âu là “tù nhân chính trị” thực chất là những đối tượng núp bóng “dân chủ”, “nhân quyền”, thường xuyên có các hoạt động chống phá, kích động bạo lực, lôi kéo, tập trung các đối tượng xấu để gây rối trật tự công cộng nhằm mục đích phá vỡ sự ổn định chính trị của đất nước, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây là những hành vi vi phạm pháp luật, cần phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, hoàn toàn không phải hành động “đàn áp người đấu tranh” như một số nhận định chủ quan, phiến diện, một chiều, mang tính bao biện cho các sai phạm của những phần tử chống đối.

Những năm qua, dù đời sống kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn nhưng Việt Nam luôn nỗ lực và đã đạt được những kết quả tích cực trong bảo vệ quyền con người. Theo Báo cáo kinh tế - xã hội tại Đại hội XIII của Đảng, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020; đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; tại Việt Nam không có khủng bố, người dân được sinh sống và lao động trong môi trường an ninh, an toàn, ổn định, v.v. Còn theo Báo cáo Hạnh phúc thế giới năm 2022 của Liên hiệp quốc, chỉ số hạnh phúc quốc gia của Việt Nam xếp vị trí 77 (tăng 02 bậc so với năm 2021). Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi, đối thoại cởi mở với các tổ chức quốc tế về quyền con người trên tinh thần xây dựng nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau; để các cơ quan, tổ chức quốc tế có những nhận định, đánh giá thực tiễn tình hình nhân quyền trong nước trên cơ sở công bằng, minh bạch, khách quan. Đồng thời, Việt Nam không bao giờ chấp nhận và kiên quyết đấu tranh với những luận điệu, đánh giá chủ quan, phiến diện, thiếu thiện chí, không có cơ sở, không phản ánh đúng tình hình thực tế tại Việt Nam.

Và vừa qua, Việt Nam tiếp tục được cộng đồng quốc tế ủng hộ, trúng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025. Việc trúng cử trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền lần thứ hai thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền của người dân trên tất cả các lĩnh vực. Đây cũng là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, là bước tiến mới trong nỗ lực triển khai đường lối đối ngoại của Đại hội XIII của Đảng và Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến 2030. Đó là minh chứng cho thấy vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được củng cố, nâng cao.

Nhân quyền là một lĩnh vực rộng, liên quan trực tiếp đến mọi mặt của đời sống con người, bởi vậy, Việt Nam luôn và đang tiếp tục hướng tới mục tiêu đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn mọi âm mưu, thủ đoạn sử dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá cách mạng Việt Nam./.

 

Nov 24, 2022

“Bộ đội Cụ Hồ” hết lòng vì dân

          Tre Việt – Với tình cảm và tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, những người lính - “Bộ đội Cụ Hồ” trên khắp mọi miền Tổ quốc luôn xông pha, có mặt đầu tiên ở những nơi nguy hiểm nhất, địa bàn xa nhất, sâu nhất để cứu giúp người dân, nhất là trên khu vực biên giới, địa bàn có nhiều điểm xung yếu, thời tiết khắc nghiệt và thường xuyên phải hứng chịu các loại hình thiên tai như bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán. Họ luôn có mặt sớm nhất và cũng là những người rời đi sau cùng khi đã giúp nhân dân qua cơn hoạn nạn.

Bộ đội giúp nhân dân khắc phục hậu quả sau bão, lũ

Luôn xả thân vì dân

Trong thời bình, khi có thảm họa do thiên tai bão lũ gây ra, các anh “Bộ đội Cụ Hồ” luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm, quân dân gần gũi, không ngại gian khổ, mỗi khi người dân cần, dù là đêm khuya, mưa bão, sóng to, gió lớn, lũ dữ, nguy hiểm kề cận nhưng mỗi người lính đều luôn hết lòng xả thân vì dân. Có thể thấy điều đó rất rõ ở công cuộc cứu hộ người dân vùng lũ quét ở huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An hồi đầu tháng 10/2022. Với sức tàn phá khủng khiếp, trận lũ quét rạng sáng 02/10 đã cuốn đi tất cả tài sản của nhiều người dân xã Tà Cạ và thị trấn Mường Xén, với hơn 600 ngôi nhà bị ảnh hưởng, trong đó, 55 nhà bị sập hoàn toàn. Trước tình huống đó, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên Phòng Nghệ An đã huy động 150 cán bộ, chiến sĩ hành quân tới bản Sơn Hà, nơi bị thiệt hại nặng nề nhất, xa nhất, khó tiếp cận nhất để giúp dân. Với một suy nghĩ làm sao để giúp dân sớm nhất có thể, cán bộ, chiến sĩ tập trung kê kích các cột nhà, dùng con lăn di chuyển những ngôi nhà đó ra phía trước 5-10m, giúp người dân mất nhà dựng lại nhà tạm, cào bùn đất, thu dọn vệ sinh môi trường, làm cầu tạm,... tất cả đều phải làm bằng sức người. Điều kiện làm việc rất khó khăn, không có nước sạch, không có nơi ăn nghỉ, ròng rã gần một tháng trời, những người lính “Bộ đội Cụ Hồ” đã làm việc không biết mệt mỏi để giúp bà con, và chỉ đến khi người dân đã có nhà để trú tạm, bắt đầu ổn định lại cuộc sống, thì họ mới rút về đơn vị. Đây chỉ là một việc làm cụ thể, rất nhỏ gần đây của “Bộ đội Cụ Hồ” luôn xả thân vì dân

Có mặt ngay lúc dân cần

Các đơn vị Quân đội luôn chủ động xây dựng và thường xuyên bổ sung kế hoạch phòng, chống thiên tai tùy theo diễn biến tình hình thực tế; nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng xung yếu trong thiên tai, dễ bị chia cắt, cô lập. Phương châm “bốn tại chỗ” luôn được các đơn vị đề cao và quán triệt thực hiện nghiêm túc nhất để có thể chủ động trong mọi tình huống. Chính sự cẩn thận, phòng xa đó mà các đơn vị đã kịp thời ứng cứu người dân rất nhiều lần; nhất là khi mưa, lũ bất thường, gây ngập úng, cô lập các hộ dân. Bằng trái tim nhiệt huyết, với một cách nhanh nhất, kịp thời nhất, không nề hà gian khổ, nguy hiểm, không mảy may tính toán thiệt hơn, khi có tình huống thiên tai, những người lính “Bộ đội Cụ Hồ” luôn là lực lượng xung kích có mặt đầu tiên ứng cứu dân và là những người sau cùng rời đi khi đã đảm bảo an toàn cho người dân.

Trong ký ức của người dân miền Trung hẳn không thể nào phai nhòa những hình ảnh mưa lũ, sạt lở đất kinh hoàng trong gần hai tháng xảy ra lũ chồng lũ, bão chồng bão vào cuối năm 2020. Doanh trại bị hư hỏng do mưa bão, nhà riêng của nhiều cán bộ, chiến sĩ cũng bị ngập lũ, tốc mái,… nhưng tất cả đều gác lại, lên đường làm nhiệm vụ ưu tiên cứu giúp dân trước. Trong lũ dữ, những người lính di chuyển như con thoi bằng các loại phương tiện chạy đua với thời gian để cứu dân. Trong đêm tối mịt mùng, trong biển nước mênh mông, lực lượng vũ trang các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam,… đã ngược dòng lũ dữ tới từng thôn xóm, di tản người dân tới nơi an toàn. Và chính những người lính “Bộ đội Cụ Hồ” chạy ca nô tìm tới từng nhà dân vùng ngập sâu tiếp tế lương thực, thực phẩm, đảm bảo người dân không bị đói, khát và rét. Trong cảnh nước lũ mênh mông, hiểm nguy ấy, sự có mặt của những người lính “Bộ đội Cụ Hồ” đã trở thành điểm tựa giúp người dân yên tâm hơn, bớt lo lắng, căng thẳng, có thêm động lực tinh thần để vượt qua hoàn cảnh khó khăn.

Những hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội không ngại khó khăn, hiểm nguy, sẵn sàng xả thân để cứu tính mạng và tài sản của nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc trong thiên tai, hoạn nạn, mỗi khi gian nguy thời gian qua, không chỉ làm ngời sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, mà còn khẳng định “Bộ đội Cụ Hồ” là Bộ đội của dân, luôn hết lòng vì dân phục vụ./.

 

Nov 22, 2022

Giải thưởng Nhân quyền Việt Nam 2022 - “Trò hề” của các “nhà dân chủ”

         Tre Việt – Ngày 21/11, trang facebook Đài Á Châu Tự do (RFA) đăng bài “Blogger Nguyễn Tường Thuỵ được trao Giải thưởng Nhân quyền Việt Nam 2022”. Theo đó, bài viết đăng Thông cáo báo chí của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam rêu rao: “Blogger Nguyễn Tường Thuỵ của Đài Á Châu Tự Do (RFA) cùng hai nhà hoạt động khác và Liên minh Dân tộc Việt Nam Tự quyết được Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam trao Giải thưởng Nhân quyền 2022 vì những đóng góp của họ cho phong trào dân chủ và bảo vệ nhân quyền ở trong nước,... Ngoài ông Thuỵ, những cá nhân khác được nhận giải bao gồm: nhà thơ Trần Đức Thạch, ông Lưu Văn Vịnh”. Họ còn cho rằng: “Mục đích của Giải thưởng Nhân quyền Việt Nam trước hết là để vinh danh những đóng góp của những người hoạt động nhân quyền Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là phương cách để nuôi dưỡng và động viên tinh thần cho những người đang và sẽ dấn thân vì sứ mệnh cao cả đó”. Đây là chiêu trò quen thuộc của các “nhà dân chủ” khi núp bóng trao “giải thưởng nhân quyền” để thực hiện thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Khi nhìn vào những cá nhân, tổ chức được họ “trao giải thưởng”, dễ dàng nhận thấy đây đều là những phần tử núp dưới danh nghĩa “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

Với trường hợp Nguyễn Tường Thụy (sinh ngày 05/9/1950 tại Nam Định; thường trú tại P507, Nhà A2, chung cư 54 Hạ Đình, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội), từng là một cựu quân nhân, tuy nhiên do tư tưởng bất mãn, Nguyễn Tường Thuỵ thường xuyên có những bài viết xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, tuyên truyền chống phá Nhà nước đăng tải trên facebook cá nhân và trang mạng của “Hội nhà báo độc lập”. Nguyễn Tường Thuỵ “nổi đình nổi đám” trong vai trò là Phó Chủ tịch cái gọi là “Hội nhà báo độc lập” hoạt động trái phép nhằm chống phá Nhà nước. Năm 2014, cùng một số nhà “dân chủ” khác, Nguyễn Tường Thụy đã sang điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ nhằm vu cáo Việt Nam ngăn chặn quyền tự do báo chí, v.v. Với những hành vi chống đối đó, tháng 5/2021, Nguyễn Tường Thụy đã bị Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 11 năm tù giam về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, quy định tại Điều 117, Bộ luật Hình sự.

Về trường hợp Trần Đức Thạch (sinh ngày 19/6/1952; hộ khẩu thường trú tại xã Diễn Tân, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; là lao động tự do), đối tượng này là một trong những thành viên chủ chốt thành lập nên “Hội anh em dân chủ”, tham gia xây dựng “Cương lĩnh vắn tắt”, tập hợp lực lượng và giữ chức vụ “Trưởng đại diện miền Trung” của tổ chức này. Cũng như các “nhà dân chủ” khác, Trần Đức Thạch tích cực sử dụng mạng xã hội để tuyên truyền các thông tin, bài viết có nội dung xuyên tạc các sự kiện kinh tế, chính trị – xã hội; bôi nhọ, cổ súy, kích động chống đối, đòi “đa nguyên, đa đảng”; phỉ báng chính quyền, nhân dân. Những bài viết, thông tin bịa đặt, được Trần Đức Thạch tung ra gây hoang mang, bức xúc trong nhân dân. Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm diễn ra sáng 24/3/2021, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội tuyên giữ nguyên mức án 12 năm tù giam, phạt quản chế 03 năm kể từ khi hết thời hạn chấp hành phạt tù đối với bị cáo Trần Đức Thạch về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo quy định tại Khoản 1, Điều 109; điểm s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51; điểm h, Khoản 1, Điều 52; Điều 43 và Điều 44, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mà Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã tuyên phạt ngày 15/12/2020.

Với đối tượng Lưu Văn Vịnh (sinh năm 1967, hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương; ngụ quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh), đã có hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia; với vai trò chủ mưu cầm đầu, đã tổ chức mọi hoạt động thành lập trái phép tổ chức “Liên minh Dân tộc Việt Nam Tự quyết”, đề ra mục tiêu, đường lối hoạt động của tổ chức, lôi kéo người vào tổ chức; tuyên truyền đả kích, bôi nhọ, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 18/3/2019, Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh bác đơn kháng cáo kêu oan, tuyên y án 15 năm tù đối với Lưu Văn Vịnh về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 79, Bộ luật Hình sự năm 1999.

Rõ ràng, những đối tượng trên chẳng hề có đóng góp gì cho sự phát triển của dân chủ, nhân quyền của đất nước. Thậm chí, cần phải chỉ thẳng rằng: đây là những đối tượng đang dẫm đạp lên nền dân chủ, nhân quyền của nhân dân Việt Nam; đang xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của quốc gia, dân tộc; đi ngược lại sự phát triển của cộng đồng. Vậy hà cớ gì những người này lại được nhận giải thưởng về “nhân quyền”?. Điều đó chỉ là “trò hề” của các “nhà dân chủ”. Vì vậy, cần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh, bác bỏ./.

 

Nov 17, 2022

WGAD hành động hồ đồ và can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của Việt Nam

           Tre Việt - Ngày 15/11, trang facebook Chân Trời Mới Media có đăng bài: “Việt Nam cần trả tự do và bồi thường cho ông Trần Đức Thạch”. Nội dung bài viết đăng tải đề xuất của Nhóm Công tác về Bắt giữ Tùy tiện (WGAD) của Liên hợp quốc là: biện pháp khắc phục thích hợp nhất là trả tự do cho nhà thơ Trần Đức Thạch và trao cho ông quyền thực thi để được bồi thường tiền và các khoản đền bù khác.

Có thể nhận thấy đây là việc làm không chỉ hết sức nực cười và ngớ ngẩn mà còn là sự can thiệp thô bạo, trắng trợn vào công việc nội bộ của Việt Nam của WGAD. Bởi, ai cũng biết Trần Đức Thạch là đối tượng vi phạm Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam; kẻ chủ mưu, thành viên quan trọng thành lập “hội anh em dân chủ” và luôn tiến hành các hoạt động chống phá nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; hành động của Thạch là vô cùng nguy hiểm đối với xã hội, với chế độ và nhân dân Việt Nam. Dù đã được các cấp chính quyền nhiều lần tuyên truyền, vận động nhưng Trần Đức Thạch vẫn trượt dài trong hành vi phạm tội, đi ngược lại quyền lợi, lợi ích của nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc phòng, cuộc sống bình yên của nhân dân. Chuỗi hành vi của Trần Đức Thạch từ khi thành lập “Hội anh em dân chủ” và liên tục có hành vi chống đối chính quyền trong thời gian dài thể hiện rõ bản chất chống phá Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội của Thạch. Hành động chống phá của Thạch đã phải trả giá bằng bản án 12 năm tù và phạt 03 năm quản chế. Bản án trên nhận sự đồng tình cao của dư luận xã hội và Thạch cũng phải cúi đầu thừa nhận các hoạt động của mình là sai trái. Ngoài ra đây cũng là bài học, lời cảnh tỉnh cho các đối tượng có hành vi chống phá, đi ngược quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân Việt Nam.

Theo Tre Việt, WGAD) đưa ra ý kiến hôm 04/11/2022, cho rằng việc Chính quyền Việt Nam bắt giữ ông Trần Đức Thạch, đồng sáng lập viên của tổ chức Hội anh em dân chủ là tùy tiện, hành động hết sức nực cười và ngớ ngẩn. Tre Việt cho rằng, WGAD cũng như bất kỳ một cơ quan nào của Liên hợp quốc không nên chủ quan, hãy tìm hiểu kỹ nguyên nhân, sự việc và tình hình chính trị an ninh xã hội của Việt Nam rồi đưa ra đề xuất cũng chưa muộn. Còn hành động, việc làm đề xuất trên của WGAD là hồ đồ và can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của Việt Nam./.

Nov 16, 2022

Việt Tân lại xuyên tạc, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

           Tre Việt – Trong bối cảnh sức ép lạm phát, tỷ giá, lãi suất tăng; dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, bão lũ tiếp tục diễn biến bất thường, ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất, kinh doanh,... lợi dụng vào đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị  ra sức xuyên tạc, bóp méo vấn đề, đổ lỗi, phủ nhận nền kinh tế thị trường thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mới đây, ngày 14/11, trang facebook Việt Tân đăng bài: “Hậu quả kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, của Vũ Việt, cho rằng: “Đường lối kinh tế tập trung cộng với tham vọng kiểm soát tất cả quyền lợi kinh tế của đảng cầm quyền đang gây ra những bế tắc cho Việt Nam”. Với cái nhìn phiến diện, thái độhằn học, họ đã cố tình quy chụp những yếu kém trong hoạt động của một số ngân hàng là do kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, lợi dụng sự chỉ đạo của Chính phủ khi cho phép Ngân hàng Nhà nước có biện pháp can thiệp thị trường ngoại hối khi cần thiết theo quy định để bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ và hệ thống các tổ chức tín dụng, họ tung tin xuyên tạc gây hoang mang, dao động và làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, Chính phủ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Điều đó không chỉ thể hiện sự hằn học, chống đối mà còn cho thấy sự hiểu biết nông cạn của Việt Tân về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Cần khẳng định: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế được vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nét ưu việt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là việc đem thành quả của tăng trưởng kinh tế đến với mọi người bằng cách không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề công bằng, bình đẳng xã hội. Trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm pháp luật và làm sai chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã hội. Đồng thời, kiên quyết không dung túng, bao che cho những hành vi sai trái, những nguyên nhân sinh ra các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, làm thất thoát tài sản Nhà nước. Hiện nay, Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên những hạn chế, tiêu cực là không tránh khỏi. Nhưng đó không phải là bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mà những sai phạm đó là do sựyếu kém trong khâu tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh của một số cá nhân lãnh đạo và nhà quản trị doanh nghiệp, v.v.

Nếu có cái nhìn khách quan, không định kiến, đều thấy rằng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, vừa phù hợp với quy luật phát triển kinh tế, vừa phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Thực hiện chủ trương này, sau hơn 35 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế của Việt Nam năm 2022 ước đạt gần 400 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người hơn 4.000 USD. Quy mô thương mại khoảng 750 tỷ USD, thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế.Việt Nam đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do với trên 60 nước, vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường lớn nhất trên thế giới và ngày càng đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, các chuỗi cung ứng. Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhưng Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng GDP cao, 9 tháng đạt 8,83%, ước tính cả năm đạt 8%. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, nền kinh tế của Việt Nam đã khắc phục được rất nhiều hạn chế của kinh tế thị trường tự do. Với mục tiêu định hướng nhất quán quan điểm phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội,công tác an sinh xã hội những năm qua ngày càng được cải thiện; công tác xóa đói giảm nghèo được quan tâm và mang lại kết quả tích cực, v.v.

Vì vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước, Nhân dân ta lựa chọn và phát triển là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật của thời đại và tình hình thực tiễn. Mặc dù còn những hạn chế, nhưng những thành tựu mang lại là không thể phủ nhận. Nên, việc chỉ nhìn vào những yếu kém trong hoạt động của một số tổ chức, cá nhân trong quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước để đổ lỗi do kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, rồi đi đến phủ nhận toàn bộ thành quả củamô hình này mang lại đối với sự phát triển của đất nước ta là luận điệu xuyên tạc nố bịch. Dó đó, mỗi người dân Việt Nam cần phải đề cao cảnh giác, tỉnh táo để nhận diện đúng và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ./.

Nov 11, 2022

Luận điệu xuyên tạc nố bịch của RFA

           Tre Việt - Thực hiện Chương trình kỳ họp thứ tư, Quốc hội (khóa XV), chiều ngày 09/11, Quốc hội họp phiên toàn thể, tiến hành thảo luận tại hội trường về dự án Luật Phòng thủ dân sự. Lợi dụng việc này, ngày 10/11, trang facebook Đài Á Châu Tự Do (RFA), đăng bài: “Luật Phòng vệ dân sự: cần hay không”; trong đó, trích dẫn nội dung phát biểu của một số nhà “dân chủ”, bất đồng chính kiến để xuyên tạc việc Quốc hội thảo luận về dự án Luật Phòng thủ dân sự. Họ cho rằng: “Ưu tư của nhà cầm quyền Việt Nam là vấn đề người bất đồng chính kiến, lo sợ người dân nổi loạn phản kháng… cho nên họ cần có những quy định để thực hiện việc tăng đàn áp”.

          Đây là luận điệu rất nố bịch, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước khi Quốc hội thảo luận, xây dựng và thống nhất ban hành Luật Phòng thủ dân sự, gây hoài nghi trong các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo, điều hành của Đảng, Nhà nước.

Cần khẳng định rõ: việc xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện Luật Phòng thủ dân sự là hết sức cần thiết. Bởi :

Thứ nhất, việc xây dựng, ban hành Luật Phòng thủ dân sự là để thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng tại các nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phòng thủ dân sự, như: Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 30/8/2022 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo đã chỉ rõ: “khẩn trương xây dựng Luật Phòng thủ dân sự; rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng thủ dân sự đáp ứng kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ phòng thủ dân sự trong tình hình mới”, v.v.

Thứ hai, Hiến pháp (năm 2013), quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân”; và “Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh”. Trong khi đó, phòng thủ dân sự là một nội dung của nhiệm vụ quốc phòng an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Luật Quốc phòng (năm 2018) quy định: “phòng thủ dân sự là bộ phận của phòng thủ đất nước, bao gồm các biện pháp phòng, chống chiến tranh, phòng, chống, khắc phục hậu quả, thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, các nội dung liên quan đến phòng thủ dân sự lại đang được quy định ở nhiều văn bản luật và văn bản dưới luật khác nhau, gây nên những khó khăn trong việc quản lý, điều hành của lực lượng chức năng khi xảy ra các vấn đề liên quan đến phòng thủ dân sự. Mặt khác, các quy định về phòng thủ dân sự liên quan đến quyền con người, quyền công dân cần phải được quy định bằng văn bản luật để bảo đảm nguyên tắc hiến định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Vì vậy, để bảo đảm thực hiện đúng quy định của Hiến pháp (năm 2013), tạo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam về phòng thủ dân sự, cần được thể chế hóa thành pháp luật.

Thứ ba, những năm qua cho thấy các thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh diễn biến hết sức phức tạp, diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở nước ta đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với công tác phòng thủ dân sự; công tác phòng thủ dân sự đã góp phần to lớn vào việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân, tạo môi trường ổn định phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ các biện pháp ứng phó theo cấp độ phòng thủ dân sự, chưa bao quát hết các lĩnh vực, dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện, việc ứng phó với các sự việc trên đôi khi còn lúng túng, chưa kịp thời. Vì vậy đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân, bảo đảm an ninh, an toàn cho đất nước. Nếu làm tốt công tác phòng thủ dân sự sẽ là một nhân tố quan trọng giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; đồng thời, cũng là động lực để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Từ những lý do trên, qua thảo luận, các đại biểu Quốc hội đã bày tỏ thống nhất cao với các nội dung của dự thảo Luật; cho rằng việc xây dựng và triển khai thực hiện Luật Phòng thủ dân sự trong tình hình hiện nay là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Không có chuyện Quốc hội xây dựng và triển khai thực hiện Luật Phòng thủ dân sự là “Ưu tư của nhà cầm quyền Việt Nam là vấn đề người bất đồng chính kiến, lo sợ người dân nổi loạn phản kháng… cho nên họ cần có những quy định để thực hiện việc tăng đàn áp” như RFA rêu rao. Luận điệu xuyên tạc nố bịch này cần đấu tranh, bác bỏ./.

 

 

“Dân oan” hay “dân gian”?

          Tre Việt - Ngày 09/11, trang facebook Dân Luận đăng status của một người dân địa phương rằng: “Đất canh tác lâu năm nhưng chính quyền địa phương thu hồi với giá rẻ mạt cho “doanh nghiệp quốc phòng” đấu giá”. Sau khi lu loa đổ lỗi cho chính quyền thu hồi đất với lý do không rõ ràng, ép giá đền bù,… cuối status người dân này viết: Thời gian gần đây chính quyền đang “đàn áp” người dân… Người dân chúng ta hãy đoàn kết đứng lên. Bài viết đang thu hút được sự quan tâm của cộng đồng mạng với hàng trăm lượt bình luận, chia sẻ. Đây là hành động nguy hiểm, mầm mống gây mất ổn định trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, cần được ngăn chặn, giải quyết kịp thời.

Trước hết, cần nhận thức rằng: sau khi giành được độc lập, tự do cho dân tộc, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định và nhất quán thực hiện chủ trương: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện quản lý. Điều này thể hiện sự ưu việt của chế độ ta. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các địa phương trong cả nước đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích, thu hút vốn đầu tư và đẩy mạnh triển khai thực hiện các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, các địa phương đã tiến hành quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội theo từng giai đoạn, đảm bảo việc quản lý, khai thác, sử dụng quỹ tài nguyên đất phù hợp, gắn phát triển kinh tế - xã hội phải đi đôi với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; trong đó, xác định rõ quy hoạch ở đâu, chỗ nào diện tích đất sử dụng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, công trình công cộng, v.v. Do đó, khi chính quyền địa phương tiến hành thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, bảo đảm an ninh quốc gia, vì lợi ích quốc gia, dân tộc thì người dân cần đồng thuận, ủng hộ và nghiêm chỉnh chấp hành.

Thứ hai, chính từ lời lẽ của người dân trong sự việc này cho thấy: cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể ở địa phương, cơ sở đã nhiều lần gặp gỡ, giải thích, giải quyết và thông báo công khai cho nhân được biết chủ trương thu hối đất vì mục đích quốc phòng. Song, bản thân người này cố tình phản đối, cản trở, không chấp hành việc bàn giao đất theo quy định của pháp luật, buộc chính quyền phải tổ chức cưỡng chế thu hồi đất, để bàn giao cho quốc phòng. Việc làm này đúng theo quy định của pháp luật, hoàn toàn không có chuyện: chính quyền đang “đàn áp” người dân như người này lu loa, vu cáo. 

Thứ ba, những trường hợp phải thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh cũng như việc bồi thường, đền bù đã được quy định rõ trong Luật Đất đai 2013. Mọi công dân cần nhận thức, tuân thủ, sống và làm việc theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nếu có vướng mắc, chưa thỏa đáng, người dân cần phản ánh đến các cấp chính quyền, cơ quan chức năng thực thi pháp luật theo đúng quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Trái lại, người dân này cho rằng mình là “dân oan”, lợi dụng mạng xã hội để lu loa, kích động, chống đối chính quyền trong việc thực hiện thu hồi vì mục đích quốc phòng, thu hút sự chú ý, xúi giục, kích động tập trung đông người, tạo “điểm nóng” an ninh nông thôn, gây mất ổn định trật tự, an toàn xã hội. Đây hành động gian trá, cần bị vạch trần, ngăn chặn, bác bỏ./.

Nov 7, 2022

Bảng xếp hạng không khách quan, thiếu trung thực của RSF

      Tre Việt – Ngày 06/11, trang facebook Chân Trời Mới Media đăng status “Việt Nam áp chót bảng xếp hạng tự do báo chí”, công bố cái gọi là báo cáo về “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2022” của Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF). Với thang điểm là 100, trong đó họ cho điểm tự do báo chí của Việt Nam là 26.11 và xếp hạng 174/180.

     Cần khẳng định rằng, việc RSF xếp hạng 174/180 cho Việt Nam là thiếu khách quan, không phản ánh đúng thực tiễn đời sống báo chí hết sức sinh động ở Việt Nam. Bởi vì: những năm qua, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để người dân có thể được thụ hưởng. Từ rất sớm, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam đã được hiến định tại Điều 10 trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1946): “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Điều 25, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện hành (năm 2013) tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018 đều có những quy định cụ thể về tự do ngôn luận, tự do báo chí. Các đạo luật này còn có những quy định cụ thể về hành vi đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân,… đều sẽ bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Như vậy, về mặt pháp luật, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành khung pháp lý về quyền tự do ngôn luận đầy đủ, đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế về quyền con người.

      Trong thực tiễn, báo chí ở Việt Nam luôn giữ vai trò là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn của nhân dân; chủ động, kịp thời, thông tin hiệu quả về những vấn đề lớn của đất nước, thể hiện rõ vai trò dẫn dắt, định hướng dư luận và tạo sự đồng thuận xã hội. Các cơ quan báo chí của Việt Nam thực sự là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tuyên truyền nhanh, đầy đủ, chính xác các tin tức sự kiện, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và Chính phủ trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, các cơ quan báo chí đã phát hiện và phản ánh trung thực gương tốt, việc tốt, nhiệt tình ủng hộ và cổ vũ nhân tố mới, mô hình hiệu quả, những biểu hiện tích cực trong quá trình phục hồi kinh tế - xã hội sau đại dịch Covid-19; qua đó, cổ vũ cán bộ, đảng viên, quần chúng, người lao động nỗ lực khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Hiện nay, Việt Nam có hơn 800 cơ quan báo chí in và điện tử, hơn 70 cơ quan có giấy phép hoạt động phát thanh, truyền hình. Cả nước có hơn 40.000 người hoạt động trong cơ quan báo chí, trong đó có hơn 17.000 người được cấp Thẻ Nhà báo, v.v. Việt Nam được thế giới ghi nhận là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng và sử dụng internet cao nhất thế giới với hơn 68 triệu người (chiếm 70% dân số), v.v.

       Thực tiễn đời sống báo chí hết sức sinh động ở Việt Nam là minh chứng khẳng định: bảng xếp hạng tự do báo chí năm 2022 của tổ chức tự xưng vì “nhân quyền” (RSF) là “tào lao”, không khách quan, thiếu trung thực. Vì vậy, mọi người hãy cẩn trọng khi tiếp cận thông tin này. Nhân đây, Tre Việt của khuyên RSF hãy hãy chấm dứt ngay hành động vô ích và lố bịch này./.

 

Nov 6, 2022

Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng sống mãi cùng lịch sử

    Tre Việt - 105 năm đã trôi qua, kể từ tháng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại - cuộc cách mạng đã làm cho mơ ước ngàn đời của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột về cuộc sống tốt đẹp, về sự công bằng, về khả năng xây dựng xã hội xã hội nhân đạo, trở thành hiện thực. Cách mạng Tháng Mười Nga vì thế mãi mãi được ghi nhận là cuộc cách mạng giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đó chính là xung lực mang lại nội dung mới cho sự phát triển thế giới, làm tăng vai trò của các dân tộc trong đời sống quốc tế và đẩy mạnh mối giao lưu quốc tế trong đời sống các dân tộc.

Người ta đã nói nhiều về cách mạng Tháng Mười Nga với biết bao lời trân trọng ngợi ca của những người yêu chân lý, và cả không ít điều hằn học tức tối của những kẻ oán thù ngay từ khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Nhất là hiện nay, khi thế giới có những thay đổi hết sức phức tạp, thậm chí đã xảy ra nhiều điều nghịch lý ngay cả với những thành quả của Cách mạng Tháng Mười Nga, thì có người đã rối trí và đi tới nhận thức sai lạc. Hơn thế nữa, kẻ thù đủ loại đang lợi dụng sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội và nhất là sự đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô để bôi nhọ hình ảnh của Cách mạng Tháng Mười Nga và công kích vào cơ sở tư tưởng của cuộc cách mạng đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Luận điệu của họ thực ra chẳng có gì mới, chỉ có điều lần này họ nói thẳng thừng hơn, rằng: Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc bạo động phản dân chủ, là cuộc cách mạng đã đẻ non, v.v.

Theo Tre Việt: Cách mạng Tháng Mười Nga có bản chất và định hướng hòa bình dân chủ, là cuộc cách mạng sống mãi cùng lịch sử. Bởi, hòa bình - dân chủ - hạnh phúc, những tiếng ngọt ngào ấy bao giờ cũng được loài người trân trọng ước ao và từ lâu con người luôn quan tâm sâu sắc đến những lý tưởng ấy. Lịch sử chỉ dành cho số phận của loài người và của nhiều dân tộc những khoảng thời gian hòa bình rất ngắn so với chiều dài của nó. Thế kỷ XX đã phải chịu đựng thảm họa của hai cuộc chiến tranh thế giới. Nếu như không có Cách mạng Tháng Mười Nga và không có chủ nghĩa xã hội hiện thực, cứ mặc cho chủ nghĩa đế quốc tự do cướp bóc và tự do tranh ăn bằng súng đạn, thử hỏi thế giới sẽ ra sao?

Và, Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra thời kỳ mới cho loài người là khả năng ngăn ngừa chiến tranh thế giới và cùng tồn tại hòa bình. Đó mãi mãi là cống hiến vô giá mà lịch sử nghi nhận. Một điều khác mà ai cũng nhớ: việc bảo đảm hòa bình đã được đưa lên thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong chính sách đổi mới ngoại của chính quyền xô viết thời đó. Hành động lập pháp đầu tiên của chính quyền Xô Viết là sắc lệnh của Lênin về hòa bình. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử loài người tư tưởng thiết lập một nền hòa bình vững chắc cho toàn thế giới được thể hiện trong chính sách của một quốc gia.

Cách mạng Tháng Mười Nga cũng là một cuộc cách mạng đặt nền móng cho một nền dân chủ mới, cao nhất - dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ đối với đông đảo các tầng lớp nhân dân. Vậy ở đâu và ai là người vì dân chủ ? Không nói đâu xa, cứ xem ngay tại Liên Xô trước đây và nước Nga hôm nay cũng không dễ tìm được lời giải đáp cho cẩu hỏi ấy. Năm 1917 cuộc tiến công vào Cung điện Mùa Đông được tiến hành bởi hàng vạn công nhân, nông dân, binh lính. Nhưng ai cũng biết đó là một cuộc cách mạng ít đổ máu nhất so với mọi cuộc cách mạng trước đó.

Vậy nên, dù ai có nói nghiêng, nói ngả thì cũng không thể đặt dấu chấm hết vào Cách mạng Tháng Mười. Cho dù thực thể của Cách mạng Tháng Mười Nga là chủ nghĩa xã hội hiện thực đang gặp những khó khăn to lớn, thậm chí đổ vỡ ở một số nơi, thì Cuộc cách mạng đó vẫn sống mãi trong lòng nhân dân nước Nga và các nước khác, vì ai cũng rõ bản thân Cuộc cách mạng đó đã phải nhận về toàn bộ gánh nặng lịch sử và những gian nan vất vả của người đi trước mở đường. Thực tế, Cuộc cách mạng đó vẫn đang sống trong cuộc đấu tranh giai cấp những người làm công ở các nước tư bản đòi quyền dân sinh, dân chủ và đòi có việc làm. Nó vẫn tiếp tục nuôi dưỡng tinh thần dân tộc của nhân dân các nước đang xác lập chủ quyền dân tộc thực sự. Và đặc biệt, tinh thần và lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn đang cổ vũ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trong việc khắc phục những lệch lạc, tình tòi những cách thức và bước đi hợp lý để xây dựng chủ nghĩa xã hội thực sự tốt đẹp, văn minh. Bởi vậy, mọi sự bóp méo, xuyên tạc về giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga sẽ là vô giá trị./.