Oct 24, 2024

Cảnh giác trước sự suy diễn, xuyên tạc về “điểm nghẽn” thể chế

          Tre Việt - Phát biểu tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XV vừa qua, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã nêu ra 3 “điểm nghẽn” lớn nhất hiện nay ảnh hưởng đến quá trình phát triển đất nước là thể chế, hạ tầng và nhân lực thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã đăng tải, chia sẻ nhiều bài viết suy diễn, xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông quốc tế, mạng xã hội. Đáng chú ý, ngày 23/10, kênh tiếng Việt, Đài Á Châu Tự do (RFA) đăng bài: “Lực lượng dân chủ trong và ngoài nước kêu gọi Việt Nam cải cách thể chế”; trong đó, yêu cầu cần cải cách thể chế chính trị theo chế độ đa nguyên, đa đảng để bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa các lực lượng chính trị khác nhau. Đây là sự suy diễn, xuyên tạc vô cùng thâm độc của các phần tử cơ hội chính trị, đòi hỏi chúng ta cần nêu cao cảnh giác, tỉnh táo để nhận diện và đấu tranh bác bỏ.

Cần khẳng định ngay rằng: ở Việt Nam chỉ có một lực lượng chính trị duy nhất nắm quyền lãnh đạo đất nước đó là Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội cả nước đang hướng tới, đi lên là chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn khách quan của lịch sử, đồng thời là sự lựa chọn của Đảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh và cả dân tộc Việt Nam. Đến nay, sau gần 90 năm ra đời, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành được chính quyền, thống nhất non sông, nắm quyền lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang khẳng định vai trò, vị thế của mình và con đường đã lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn cả về lý luận và thực tiễn. 

Tuy nhiên, đứng trước những thời cơ, thách thức để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phát triển nhanh, bền vững, đạt được những mục tiêu mà Đảng ta đã xác định thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá đúng những vướng mắc, khó khăn, bất cập, “điểm nghẽn” đang cản trở tiến trình hội nhập, phát triển đất nước. Từ đó, có các giải pháp khắc phục, tháo gỡ, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trong đó, tháo gỡ về thể chế, “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn” là yếu tố rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang sẵn sàng tâm thế bước vào một giai đoạn phát triển mới. Đặc biệt, với chức năng quan trọng của Quốc hội là lập hiến và lập pháp, cử tri và nhân dân mong muốn Quốc hội và các đại biểu Quốc hội tiếp tục thống nhất, gương mẫu đi đầu, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Bên cạnh đó, là sự vào cuộc đồng bộ của các ban, bộ, ngành, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, v.v. Làm được điều đó, nhất định đất nước ta sẽ ngày càng phát triển, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Song, với bản chất thâm độc, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị không cam tâm, đành lòng và không bao giờ từ bỏ âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội ở nước ta. Ngược lại, chúng luôn rình rập, “bới lông tìm vết”, “lập lờ đánh lận con đen”, tìm mọi cách để chống phá. Việc chúng đưa ra luận điệu: yêu cầu Việt Nam cần: “cải cách thể chế chính trị theo chế độ đa nguyên, đa đảng để bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa các lực lượng chính trị khác nhau,... là nguyện vọng của người dân mà còn thể hiện trách nhiệm của Đảng Cộng sản và Nhà nước trong việc giữ vững các giá trị nhân quyền đã cam kết” đã bộc lộ rõ bộ mặt thật, dã tâm xấu độc cần lên án, đấu tranh, bác bỏ./.

 

Oct 23, 2024

Phản bác sự xuyên tạc đường lối văn hóa của Đảng ta

         Tre Việt - Nhằm công kích, xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, đường lối xây dựng, phát triển văn hóa, văn nghệ của Đảng ta, các thế lực thù địch, phản động ra sức lợi dụng internet, các phương tiện truyền thông để chống phá; cho rằng Đảng ta không quan tâm đến phát triển văn hóa, phát triển con người, có chăng cũng chỉ là hình thức, mị dân. Mới đây, trên trang Viettan.org, Nguyễn Huy Vũ có bài viết: “Văn hóa”, đã vu cáo, xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam góp phần phá hủy văn hóa của quốc gia. Bài viết của Nguyễn Huy Vũ vẫn sử dụng chiêu bài cũ rích với cái giọng điệu thâm thù, vu khống, bịa đặt, bôi nhọ, bóp méo quan điểm, đường lối phát triển văn hóa hiện nay, đồng thời nói xấu Đảng Cộng Sản Việt Nam.

          Cần khẳng định rõ, đây là luận điệu hết sức sai trái, sặc mùi phản động của Nguyễn Huy Vũ, bởi: y núp dưới chiêu bài “tự do ngôn luận”, “tự do sáng tác”, “quyền thông tin” để kích động các quyền “tự do”, “dân chủ” trên lĩnh vực văn hóa; xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật, nói xấu, vu cáo chế độ, v.v. Mục tiêu của Nguyễn Huy Vũ và những kẻ cùng hội, cùng thuyền với y vẫn là nhằm phủ nhận tính giai cấp, tính Đảng của văn hóa; tiêm nhiễm làm xói mòn, lệch chuẩn văn hóa truyền thống, các giá trị đạo đức, nhân ái, nhân văn tốt đẹp của dân tộc; kích thích tâm lý, lối sống thực dụng, thực hiện mưu đồ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hình thành ý thức chống đối về chính trị, tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta. 

          Một sự thật hiển nhiên ai cũng biết: văn hóa là hồn cốt, sinh khí, sức mạnh của dân tộc; văn hóa còn thì dân tộc còn. Điều này được minh chứng trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Và, tiếp tục được thực tiễn minh chứng, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi đây vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận quan trọng nhằm định hướng kịp thời con đường phát triển của nền văn hóa dân tộc trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Nổi bật là: Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI), về “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”; Nghị quyết số 03-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII), về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X), về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”; Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[1]. Và, tại Hội nghị thẩm định Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (ngày 14/9/2022), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ đạo: việc xây dựng quy hoạch cần quán triệt và cụ thể hóa phát triển nhanh nhưng bền vững, phát triển hài hòa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường, đặt văn hóa ngang tầm kinh tế, chính trị, xã hội, xác định văn hóa, lịch sử truyền thống là một nguồn lực; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trên thực tiễn, nhiều tấm gương sáng trong phong trào Thi đua yêu nước, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã lan tỏa vào đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung.

Đây là minh chứng không thể chối cãi, bác bỏ luận điệu cho rằng: Đảng ta không chăm lo phát triển văn hóa, phá hủy văn hóa quốc gia, không quan tâm đến đời sống tinh thần của nhân dân. Vì vậy, mọi sự xuyên tạc, bóp méo của Nguyễn Huy Vũ về văn hóa ở nước ta là hoàn toàn sai trái; chúng ta cần kiên quyết đấu tranh, vạch trần âm mưu đen tối đó./.

 

 



[1] - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQG, H. 2021, tr.115-116.

Oct 20, 2024

Freedom House suy diễn, quy chụp vô căn cứ

           Tre Việt - Ngày 16/10, Đài VOA tiếng Việt đăng bài: “Freedom House: Việt Nam tiếp tục xiết chặt không gian mạng”. Theo bài viết, trong Báo cáo mới đây của Freedom House đã liệt Việt Nam vào nhóm các nước không có tự do internet. Lý do mà họ đưa ra là do Việt Nam định danh người dùng, kiểm duyệt nội dung, yêu cầu các nhà mạng xóa bài, v.v. Đây là sự suy diễn, quy chụp vô căn cứ của Freedom House với dụng ý xấu. Bởi vì:

Thực tế, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, nỗ lực bảo đảm đầy đủ các quyền cơ bản của công dân, như: quyền sống, tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo, v.v. Minh chứng là hệ thống pháp luật thường xuyên được bổ sung, hoàn thiện, tạo hành lanh pháp lý để người dân thụ hưởng, thực hiện các quyền của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Đặc biệt, quyền tiếp cận internet ở Việt Nam luôn được bảo đảm tốt. Mặc dù, tháng 11/1997 internet mới chính thức vào Việt Nam, nhưng tính đến tháng 01/2024, Việt Nam đã có 78,44 triệu người sử dụng internet, tỷ lệ tiếp cận internet đạt 79,1%; có 72,70 triệu người sử dụng mạng xã hội, tương đương với 73,3% tổng dân số. Điều này đưa Việt Nam trở thành một trong những nước có tỷ lệ dân số truy cập internet nằm trong top đầu thế giới.

Không thể phủ nhận sử dụng internet, mạng xã hội là một trong những giải pháp công nghệ hữu hiệu, tất yếu trong quá trình phát triển xã hội, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao dân trí, v.v. Tuy nhiên, thời gian gần đây, tình trạng lừa đảo trực tuyến thông qua internet, tài khoản mạng xã hội ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, những hành xử kém văn minh trên không gian mạng, các hoạt động quảng cáo xuyên biên giới, mua bán hàng online tại nước ta diễn biến phức tạp. Ngoài việc dùng tài khoản ảo, ăn cắp tài khoản của người khác để lừa đảo, không ít cá nhân còn sử dụng để livestream các nội dung xuyên tạc, chửi bới, xúc phạm người khác. Nhiều vụ việc xuất phát từ mạng xã hội mà phổ biến, lan truyền theo hướng tiêu cực, tác động xấu đến xã hội. Thậm chí, có một số đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn với chế độ đã lợi dụng mạng xã hội để thực hiện các hoạt động tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp; xâm phạm lợi ích của cá nhân, tổ chức; vi phạm pháp luật. Do đó, việc xác thực, định danh tài khoản mạng xã hội là rất cần thiết, giúp bảo vệ tất cả mọi người khi tham gia hoạt động trên môi trường internet, mạng xã hội. Cùng với đó, việc kiểm duyệt nội dung trên internet, mạng xã hội là nhằm xây dựng, tạo môi trường không gian mạng lành mạnh, an toàn.

Trong báo cáo của Freedom House còn rêu rao rằng: nội dung các bài đăng bị xóa ở mức đáng báo động do Việt Nam gây áp lực cho các công ty truyền thông xã hội tuân thủ các yêu cầu xóa nội dung đó. Đây là việc làm hoàn toàn bình thường của các cơ quan chức năng trong quá trình thực thi pháp luật, theo Luật An ninh mạng. Thực tiễn cho thấy, các nội dung bị xóa đều là nội dung không phù hợp, vi phạm các quy định của pháp luật. Bản thân các công ty truyền thông, tập đoàn công nghệ chủ quản các trang mạng xã hội cũng nhận thấy những nội dung, thông tin phía Việt Nam yêu cầu xóa là không phù hợp quy định chung của cộng đồng, là vi phạm pháp luật,... nên họ phải hành động để ngăn chặn. Ngược lại, nếu nội dung đăng trên mạng xã hội là phù hợp với tiêu chuẩn chung của cộng đồng thì cơ quan chức năng Việt Nam có yêu cầu thì họ cũng không xóa.

Vì thế, việc Freedom House dựa vào những thông tin phiến diện, thiếu cơ sở rồi suy diễn, quy chụp cho rằng Việt Nam xiết chặt không gian mạng, không có tự do internet là hoàn toàn vô căn cứ, cần lên án, bác bỏ./.

 

Oct 19, 2024

Tại sao các Zận “dân chủ” lại đòi bỏ ba điều luật (109, 117, 331) trong Bộ luật Hình sự năm 2015

            Tre Việt - Lợi dụng việc các tổ chức, cơ quan chức năng tổ chức các hội nghị, hội thảo để lấy ý kiến đóng góp rộng rãi trong nhân dân để xây dựng các dự Luật (trong đó có nội dung đề nghị bổ sung một số luật) trình Quốc hội xem xét thông qua, các Zận “dân chủ”, lực lượng thù địch, phản động ra sức xuyên tạc ý nghĩa và một số nội dung của định hướng xây dựng luật. Trên các trang mạng xã hội, chúng sử dụng thủ đoạn “trích dẫn”, “cắt ghép” ý kiến của một số luật sư thoái hóa, biến chất, như: Đặng Đình Mạnh, Lê Quốc Quân,… để phủ nhận sự cần thiết, giá trị và một số nội dung bổ sung của luật. Đáng lưu ý là chúng “yêu cầu bãi bỏ ba điều luật (109, 117, 331) trong Bộ luật Hình sự năm 2015.

         Trước hết cần khẳng định rõ đây là đòi hỏi hết sức phi lý. Vậy tại sao chúng lại đưa ra yêu cầu này? Tre Việt xin trao đổi mấy ý kiến như sau:

Thứ nhất, các điều luật mà chúng đòi xóa bỏ là những quy định về nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, như: Điều 109 “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, Điều 117 “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Điều 331 “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.


Thứ hai, từ thực tiễn đều minh chứng: bản thân các Zận “dân chủ” đã luôn lợi dụng vấn đề “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”,... để vi phạm các nội dung được quy định rõ trong các điều trên, nhất là Điều 331 “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Những vi phạm của các nhà Zân “chủ dân” này đều được các cơ quan pháp luật Việt Nam điều tra, xét xử công khai, đúng người, đúng tội. Song, được sự hà hơi, tiếp sức, thậm chí là “vinh danh” của các thế lực phản động, thù địch bên ngoài, chúng ra sức “kêu oan”, xuyên tạc, vu cáo chính quyền, rằng: vi phạm quyền “tự do ngôn luận”, “dân chủ”, quyền “bất khả xâm phạm của con người”,... hòng hướng sự chú ý của dư luận trong nước, cũng như cộng đồng quốc tế, nhất là các tổ chức theo dõi nhân quyền, các cơ quan truyền thông thiếu thiện chí như: RFI, RFA, BBC,… tạo cớ can thiệp, chống phá Việt Nam.

Thứ ba, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948) khẳng định: “Mỗi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung”. Thực tiễn, hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều có chế tài, điều khoản luật xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng quyền tự do để vi phạm pháp luật. Nói cách khác, quyền tự do ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải gắn với chế độ chính trị, điều kiện xã hội, nền tảng đạo đức, pháp lý trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện và bối cảnh cụ thể mà đưa ra những giới hạn nhất định đối với việc thực hiện tự do ngôn luận của công dân. Ở Mỹ, giới hạn của tự do ngôn luận được thể hiện chủ yếu qua án lệ của các tòa án, đặc biệt là Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cho phép chính quyền ngăn chặn và trừng phạt các phát ngôn có tính chất khiêu dâm, tục tĩu, phỉ báng, xúc phạm, gây hấn, v.v. Ở Pháp, pháp luật về tự do ngôn luận đưa ra các giới hạn, chế tài nghiêm khắc trừng trị hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm việc bảo vệ nhân phẩm con người, chống lại việc vu khống, bôi nhọ; chống phân biệt chủng tộc, tôn giáo; chống kích động bạo lực, gây hận thù (Luật Tự do báo chí, năm 1881); chống lại việc xâm phạm đời tư (Bộ luật Dân sự); cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia (Luật Hình sự). Việc bày tỏ quan điểm cá nhân trên mạng internet cũng chịu sự điều chỉnh của Luật Tự do báo chí, v.v.

 Những điều trên cho ta thấy rõ bản chất của các nhà Zận “dân chủ” và các thế lực thù địch, phản động là: chúng muốn xóa bỏ các điều luật trên để thực hiện âm mưu, ý đồ hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, tạo môi trường thuận lợi để chống phá Đảng, Nhà nước. Mục đích của chúng là muốn đưa mình thoát khỏi “vùng cấm” của luật pháp, muốn đứng ngoài vòng pháp luật để dễ dàng tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, như: tuyên truyền chống Nhà nước, thành lập các tổ chức chính trị đối lập, đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam,… mà không bị chế tài pháp luật xử lý. Đồng thời, hướng lái dư luận xã hội theo chiều hướng tiêu cực, tạo ra suy nghĩ rằng môi trường chính trị của Việt Nam rối ren, tâm lý người dân bất ổn, hoang mang, qua đó hòng tạo áp lực dư luận để đòi hỏi phải thay đổi các quy định hoặc xóa bỏ các điều luật này.

Như vậy, có thể thấy, yêu cầu xóa bỏ các điều (109, 117, 331) trong Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ là những đòi hỏi phi lý, là chiêu trò, thủ đoạn của các nhà Zận “dân chủ” và lực lượng thù địch, phản động hòng bao che, cổ súy cho những hành vi chống phá Đảng, Nhà nước, làm mất ổn định chính trị - xã hội, cản trở sự nghiệp phát triển của Việt Nam. Chúng ta cần cảnh giác và đấu tranh bác bỏ những yêu cầu đòi hỏi phi lý này./.

Oct 15, 2024

Sự quy chụp thiên kiến của HRW về tình hình nhân quyền ở Việt Nam

            Tre Việt – Ngày 10/10, trong bài phát biểu tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế (HRW) lại quen thói “quy chụp” rằng: việc Việt Nam cam kết cải thiện nhân quyền vẫn chỉ là “những lời hứa suông”.

Cần khẳng định ngay rằng, sự quy chụp hồ đồ trên của HRW lần nữa phản ánh những định kiến lâu nay của tổ chức này đối với những nỗ lực và cam kết của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người theo cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.

Như đã biết, ngày 07/5/2024 tại Trụ sở Liên hợp quốc (Geneva, Thụy Sỹ), Đoàn đại biểu Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt dẫn đầu đã tham gia Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc. Báo cáo quốc gia UPR chu kỳ IV đề cập một cách tổng thể việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam trên các lĩnh vực kể từ lần rà soát trước và rà soát việc thực hiện những khuyến nghị mà Việt Nam đã chấp thuận tại chu kỳ III. Tính đến tháng 01/2024, trong số 241 khuyến nghị mà Việt Nam chấp thuận tại chu kỳ III, Việt Nam đã thực hiện có kết quả 209 khuyến nghị (chiếm 86,7%), thực hiện một phần 30 khuyến nghị (12,4%), và 02 khuyến nghị còn lại đang được xem xét thực hiện vào thời điểm phù hợp. Đây là tỷ lệ chấp thuận cao nhất của ta trong 4 chu kỳ. Điều này thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với tiến trình UPR, cũng như khẳng định mong muốn và quyết tâm của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. 

Phát biểu khai mạc và trình bày báo cáo quốc gia của Việt Nam, Thứ trưởng Đỗ Hùng Việt, khẳng định: chính sách nhất quán của Việt Nam về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Với chủ trương coi con người là trung tâm, là mục tiêu và động lực của quá trình đổi mới, phát triển đất nước, Việt Nam đã vươn lên từ một nước nghèo để trở thành một trong những nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, hội nhập quốc tế sâu rộng. Kể từ lần rà soát UPR chu kỳ III vào năm 2019, Việt Nam đã tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về quyền con người và đạt được nhiều thành tựu trên thực tế. Các quyền y tế, giáo dục, bảo đảm an sinh xã hội, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tự do báo chí, internet, bình đẳng giới đều đạt những tiến bộ rõ rệt. Các chỉ số về phát triển con người (HDI), bình đẳng giới (GEI) của Việt Nam do các cơ quan Liên hợp quốc xếp hạng liên tục được cải thiện. Chính phủ đã có nhiều chính sách, biện pháp để bảo vệ sức khỏe người dân, phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch Covid-19, tích cực thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, kinh tế số và thực hiện các cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế về quyền con người.

Phiên rà soát UPR về Việt Nam được các nước quan tâm cao, với hơn 130 nước tham gia đối thoại và phát biểu trong không khí cởi mở, thẳng thắn và thực chất. Đa số các nước đánh giá Báo cáo quốc gia của Việt Nam có chất lượng, cung cấp thông tin đầy đủ, toàn diện về tình hình đảm bảo quyền con người ở Việt Nam, hoan nghênh cách tiếp cận hợp tác và đối thoại cởi mở, toàn diện, minh bạch trong phần trình bày đối thoại của đoàn Việt Nam. Các nước ghi nhận các chính sách, nỗ lực và thành tựu trong bảo đảm quyền con người, đánh giá cao cam kết mạnh mẽ và sự nghiêm túc của Việt Nam trong thực hiện các khuyến nghị UPR cũng như vai trò và đóng góp của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương về quyền con người trong đó có Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc. Các nước đánh giá cao thành tựu của Việt Nam về: phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo; bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ; đẩy mạnh giáo dục quyền con người, nâng cao nhận thức về quyền con người, thúc đẩy quyền của các nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, người khuyết tật, chống phân biệt đối xử với người đồng tính, song tính và chuyển giới; có kế hoạch tổng thể thực hiện các khuyến nghị UPR chu kỳ III với sự tham gia đóng góp của đa dạng các bên liên quan; cải cách khuôn khổ thể chế bảo đảm quyền con người, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; (vi) thúc đẩy các hoạt động kinh doanh có trách nhiệm; hoan nghênh sáng kiến của Việt Nam về thúc đẩy Hội đồng Nhân quyền thông qua Nghị quyết kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế; ban hành kế hoạch hành động quốc gia về phụ nữ, hòa bình và an ninh, v.v.

Ngoài ra,  có một số nước nêu bình luận và khuyến nghị liên quan đến những vấn đề dựa trên thông tin chưa được kiểm chứng, song đoàn Việt Nam đã có những trao đổi tương tác chủ động theo hướng nhấn mạnh hòa bình, an ninh quốc gia và ổn định đất nước là các yếu tố tiên quyết để Việt Nam đạt được kết quả như hiện nay. Việt Nam sẵn sàng lắng nghe những ý kiến đóng góp xây dựng; đồng thời, sẽ không khoan nhượng đối với các hành động kích động, đe dọa an ninh quốc gia và sự ổn định của đất nước.

Như vậy, những kết quả đạt được tại Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, cùng những nỗ lực của Việt Nam trong thúc đẩy và bảo đảm quyền con người trong thời gian qua chính là minh chứng bác bỏ sự quy chụp đầy thiên kiến của HRW khi cho rằng: Việt Nam cam kết cải thiện nhân quyền vẫn chỉ là “những lời hứa suông”. Hành động này của HRW cần kịch liệt lên án, đấu tranh bác bỏ./.

 

Oct 7, 2024

RFA đang “lo bò trắng răng”

          Tre Việt - “Các tập đoàn công nghệ lớn của Mỹ đối mặt với các quan ngại về nhân quyền khi đầu tư vào Việt Nam” là tiêu đề bài viết đăng trên trang facebook Đài RFA ngày 05/10. Trong bài viết có thông tin: khi làm việc với các nhà lãnh đạo Việt Nam, đại diện các tập đoàn lớn về công nghệ của Mỹ lại không hề nhắc tới liệu hãng có thảo luận vấn đề tự do ngôn luận với lãnh đạo Chính phủ Việt Nam vốn thường xuyên bỏ tù công dân giám bày tỏ ý kiến khác biệt dù rất nhỏ của mình trên mạng xã hội hay không.

Thực chất, thông tin này nhằm kích động các tập đoàn công nghệ của Mỹ dùng vấn đề nhân quyền làm “điều kiện” khi đàm phán hợp tác với Việt Nam, nếu không sẽ đối mặt với các quan ngại về nhân quyền khi đầu tư. Điều này cho thấy Đài RFA đang “lo bò trắng răng”. Bởi vì:

Tất cả những tập đoàn kinh tế lớn, các doanh nghiệp trong đó có các tập đoàn công nghệ lớn của Mỹ đều thực hiện nguyên tắc bất di bất dịch trong khi đàm phán hợp tác đầu tư, làm ăn ở bất kỳ quốc gia nào là họ đều phải tìm hiểu kỹ về tình hình chính trị; chủ trương, đường lối, chính sách thu hút và những ưu đãi khi đầu tư; nguồn nhân công, cơ sở hạ tầng,... làm cơ sở tính lợi nhuận thu được. Đây là yếu tố quan trọng nhất, quyết định việc có đầu tư hay không của các tập đoàn, doanh nghiệp. Đối với Việt Nam, hiện đang là một trong những quốc gia luôn đáp ứng tốt nhất các điều kiện, yêu cầu đối với các tập đoàn kinh tế lớn và cộng đồng doanh nghiệp trên toàn thế giới.

Thực tế đã chỉ ra: Việt Nam là đất nước có sự ổn định về chính trị. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách ưu đãi để phát triển nền kinh tế, khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư. Trong các chuyến công tác, làm việc ở nước ngoài, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ đều có các cuộc gặp, làm việc trực tiếp với lãnh đạo các tập đoàn lớn, cộng đồng doanh nghiệp tại các nước nhằm khẳng định quan điểm, chủ trương, chính sách thu hút đầu tư; trao đổi, làm rõ những thời cơ, thuận lợi khi đầu tư vào Việt Nam,... tạo sự yên tâm, tin tưởng của các tập đoàn kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp quốc tế.

Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 31/8/2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt hơn 20,52 tỉ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, có 2.247 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (tăng 8,5% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt gần 12 tỉ USD (tăng 27% so với cùng kỳ); có 926 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (tăng 4,9% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt hơn 5,7 tỉ USD (tăng 14,8% so với cùng kỳ). Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân.

Bên cạnh đó, Việt Nam luôn quan tâm, nỗ lực bảo đảm và thực thi đầy đủ các quyền cơ bản của con người, như: quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo, v.v. Bằng chứng là, ngày 27/9/2024 vừa qua, Khóa họp thường kỳ lần thứ 57, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc đã thông qua kết quả rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV đối với Việt Nam. Trong đó, đánh giá cao sự tham gia nghiêm túc của Việt Nam trong toàn bộ tiến trình UPR, nhất là việc chấp thuận các khuyến nghị với tỉ lệ cao và xây dựng kế hoạch triển khai bài bản. Đồng thời, hoan nghênh những nỗ lực và thành tựu ấn tượng của Việt Nam rong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, đặc biệt trong bối cảnh phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai. Các đại biểu đã ghi nhận các tiến bộ mọi mặt ở Việt Nam về hoàn thiện thể chế, pháp luật về quyền con người, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới sáng tạo, giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội và quyền các nhóm dễ bị tổn thương. Nhiều nước đã khuyến khích Việt Nam phát huy kinh nghiệm và thực tiễn tốt trong triển khai các khuyến nghị UPR. Một số tổ chức phi chính phủ nhấn mạnh đã được tạo điều kiện tham gia đóng góp vào tiến trình UPR ở Việt Nam, chia sẻ rằng thông qua tham gia UPR đã có nhiều đề xuất của mình được Chính phủ tiếp thu và triển khai trên thực tiễn, nhất là trong bảo đảm bình đẳng giới, trao quyền cho phụ nữ, thúc đẩy phát triển bền vững.

Vì thế, không có gì ngạc nhiên, khi Chủ tịch phụ trách quan hệ đối ngoại toàn cầu của Meta (Công ty mẹ của Facebook) là Nick Clegg đã khẳng định: “Việt Nam tiếp tục là một quốc gia quan trọng đối với Meta” trong cuộc làm việc với Thủ tướng Chính phủ Pham Minh Chính và tuyên bố sẽ sản xuất thiết bị kính thực tế ảo tại Việt Nam. Và tới đây, sẽ còn nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn khác trên thế giới tiếp tục tìm hiểu, đầu tư phát triển tại Việt Nam trong tương lai.

Việc Đài RFA chỉ dựa vào một số thông tin phiến diện, không chính xác rồi suy diễn: “Các tập đoàn công nghệ lớn của Mỹ đối mặt với các quan ngại về nhân quyền khi đầu tư vào Việt Nam” là hoàn toàn vô lý, chả khác nào “lo bò trắng răng”./.


Đằng sau sự “góp ý” của “Giáo sư” Cống

           Tre Việt - Không ai lạ gì “Giáo sư” Cống và những chiêu trò của y. Lần này, vị “Giáo sư” lại lợi dụng “dân chủ” để viết bài “Góp ý vào việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng”.

Về phần nhân sự, với trình độ “Giáo sư” ông Cống đưa ra ba suy luận võ đoán, vô căn cứ, xuyên tạc về việc các văn kiện của Đảng chỉ viết theo ý của một người; đại hội XIII bầu ra các vị “tinh hoa dổm” và ngang nhiên quy kết trách nhiệm cho cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Từng là một đảng viên, hiển nhiên ông Cống phải biết rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam có nguyên tắc, tôn chỉ hoạt động rõ ràng; một trong số đó là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách. Như vậy, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết,… của Đảngđều là kết quả của trí tuệ tập thể, được thảo luận dân chủ, công khai để đi đến thống nhất và được ký ban hành bởi Tổng Bí thư. Ấy vậy mà Nguyễn Đình Cống lại cho rằng đó “thực chất chỉ là viết theo ý kiến của một người”. Và thật nực cười khi ông Cống cho rằng các đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) có người mang học hàm, học vị Giáo sư, Tiến sĩ, được đào tạo bài bản về lý luận, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú, được rèn luyện qua nhiều cương vị là “dổm”. Về vấn đề này, Tre Việt xin nhắc ông Cống cần tự mình xem lại cái danh “Giáo sư” của mình thì hơn!Cũng cậy mình có “trình độ” quá cao, ông Cống lạiviện dẫn sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện của một số cán bộ đảng viên dẫn tới tha hóa để rồi ngang nhiên quy kết trách nhiệm cho cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Có lẽ ông Cống “lú” do tuổi tác mới vậy, chứ thực chất ông là “Giáo sư” kia mà; hay cái tâm của ông Cống không trong sáng, đầy rẫy mưu mô?

Về phần văn kiện, đọc qua tiêu đề, độc giả nghĩ rằng sẽ có sự phân tích tường minh, sắc sảo nào đó, nhưng không, ông Cống chỉ mò mẫm cấu trúc của văn kiện các kỳ đại hội, sau đó miệt thị, trì chiết một số lãnh đạo Đảng qua các thời kỳ. Đây thực chất là một hình thức bôi nhọ lãnh đạo, xuyên tạc đường lối để hạ thấp uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong phần đầu mục ý kiến đóng góp, bằng một vài lập luận võ đoán, suy diễn theo lối ngụy biện “cá trích đỏ”, vị giáo sư “phai màu lý tưởng” đã vẽ ra một bức tranh ảo tưởng về “các phe phái” hòng gieo lên mầm mống của sự mất đoàn kết trong Đảng. Sự thực, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định trung thành và vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta, do đó, việc “đột phá về thể chế và phát triển, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ,…” là việc Đảng đã, đang và sẽ làm chứ không phải “sự đổi mới về chính trị” theo ý muốn của ông Cống. Tiếp đó, người đã từng “thông báo từ bỏ Đảng” đưa ra bốn ý kiến “nhằm tác động vào tư tưởng và hành động, có thể dùng trong việc chuẩn bị văn kiện cũng như nhân sự”. Tổng hợp lại, bốn ý kiến của ông Cống không có gì mới mẻ, chỉ là những câu từ bóng bẩy ẩn chứa ý đồ duy nhất đó là làm phai nhạt lý tưởng cộng sản, cắt đứt “sợi chỉ đỏ xuyên suốt” trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - một điều vô cùng nguy hiểm, đi ngược lại với nguyện vọng và mong muốn của nhân dân.

Tre Việt thấy, về mặt bản chất, những “góp ý” của Nguyễn Đình Cống chỉ xoay quanh việc bôi nhọ lãnh đạo Đảng, đội ngũ cán bộ đảng viên, đưa ra những ý kiến trái chiều, gây chia rẽ giữa Đảng với nhân dân hòng tạo dư luận ngờ vực, thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, tạo môi trường rối ren, là chất xúc tác cho các đối tượng chống phá tìm cách quấy rối sự lãnh đạo của Đảng và xa hơn là muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chứ không hề đem lại lợi ích cho nhân dân. Đây chính là sự “góp ý” hết sức thâm độc của “Giáo sư” Nguyễn Đình Cống, cần vạch mặt, đấu tranh bác bỏ./.

 

Oct 4, 2024

Không thể xuyên tạc mục tiêu, khát vọng và sự lựa chọn đúng đắn của dân tộc Việt Nam

           Tre Việt - Ngày 02/10, trang facebook Chân Trời Mới Media đăng status: “Cái gì không có, Cộng sản Việt Nam bù bằng khẩu hiệu, 6 chữ không có thật “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” hiện diện ở khắp hang cùng ngõ hẻm...”.

Đây là luận điệu bịa đặt, mang bản chất thù địch của Chân Trời Mới Media nhằm phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước. Đồng thời, xuyên tạc, hạ thấp giá trị của độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc, khát vọng và mục tiêu cao cả trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước mà cả dân tộc, nhân dân Việt Nam đang nỗ lực phấn đấu thực hiện.

 Cần khẳng định: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” luôn là mục tiêu và sự lựa chọn của các quốc gia, dân tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam. Vì khát vọng Độc lập - Tự do - Hạnh phúc nên dân tộc Việt Nam đã sớm khẳng định chủ quyền quốc gia, lãnh thổ, bao thế hệ người Việt Nam đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ quyền độc lập, tự do của Tổ quốc, của dân tộc. Và, cũng hơn tất cả các dân tộc trên thế giới, dân tộc Việt Nam hiểu sâu sắc các giá trị của Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Vì vậy, dân tộc Việt Nam lựa chọn Độc lập - Tự do - Hạnh phúc gắn liền với Quốc hiệu, gắn liền với xây dựng chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan và là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh: từ một nước bị thống trị, không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng với sự đoàn kết, đồng lòng, quyết tâm của cả dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã trở thành quốc gia độc lập, người dân được tự do, làm chủ vận mệnh của mình và được hưởng hạnh phúc. Đặc biệt là, sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, với chính sách ngày càng hoàn thiện, đồng bộ và đi vào cuộc sống, bảo đảm an sinh xã hội của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trên các lĩnh vực. Về giảm nghèo, Đảng, Nhà nước ta thực hiện linh hoạt các giải pháp hỗ trợ người dân thoát nghèo, đạt thành tựu nổi bật. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều mới giảm từ 9,88% năm 2015 còn 2,75% năm 2020, về đích trước 10 năm so với Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và là một trong 30 nước áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, được quốc tế ghi nhận. Về bảo trợ xã hội, cả nước hiện có 425 cơ sở trợ giúp xã hội (trong đó: 191 công lập và 234 ngoài công lập) nuôi dưỡng, chăm sóc hơn 41 nghìn người. Đến cuối năm 2023, đã có 100% đối tượng được hưởng trợ cấp hằng tháng, 100% số người bị thiệt hại do thiên tai, thiếu đói được trợ giúp kịp thời, không để ai bị đói, hơn 90% số người khuyết tật khó khăn được trợ giúp, chăm sóc, phục hồi chức năng, hơn 90% số người cao tuổi khó khăn được trợ giúp, phụng dưỡng, chăm sóc. Đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế - hai trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội quốc gia, có diện bao phủ ngày càng mở rộng. Theo thống kê, đến hết tháng 6/2024, cả nước có khoảng 18,305 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, đạt 39,05% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng 1,164 triệu người so với cùng kỳ năm 2023 (tăng gần 02 lần so với năm 2010); số người tham gia bảo hiểm y tế liên tục tăng qua các năm (2021: 91,01%; 2022: 92,04%; 2023: 93,35%), tiệm cận mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Trong đó, hầu hết các nhóm người có thu nhập thấp, người nghèo, người yếu thế trong xã hội đều đã được tham gia bảo hiểm y tế từ nguồn hỗ trợ của ngân sách nhà nước, địa phương hoặc huy động từ các nguồn lực khác. Quyền tiếp cận thông tin, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa ngày càng được thực hiện tốt hơn. Hiện nay, đường truyền dẫn cáp quang, dịch vụ thông tin di động đã đến 100% xã trong toàn quốc. Mạng điện thoại di động đã phủ sóng cả nước, riêng tỷ lệ phủ sóng điện thoại di động băng rộng 4G của Việt Nam đã lên đến 99,8% xét trên dân số. Hệ thống cơ sở giáo dục phát triển nhanh, phổ cập giáo dục từ cấp mầm non đến trung học cơ sở hoàn thành trước thời hạn; trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 99% từ năm 2015, cấp trung học cơ sở đạt trên 95% từ năm 2020, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đạt 97,85%. Những kết quả từ chính sách an sinh xã hội đã góp phần khiến chỉ số hạnh phúc của Việt Nam liên tục tăng qua các năm. Ngày 20/3/2024, Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố Báo cáo hạnh phúc thế giới thường niên lần thứ 10; trong đó, Việt Nam tăng 11 bậc, từ vị trí 65 (năm 2023) lên vị trí 54/143 quốc gia khảo sát.

Thực tiễn sinh động trên chính là “những con số biết nói”, chứ không chỉ là“khẩu hiệu”, tự nó bác bỏ đã những luận điệu mà Chân Trời Mới Media rêu rao. Đồng thời, khẳng định Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là mục tiêu, khát vọng và sự lựa chọn đúng đắn của dân tộc Việt Nam, không thế lực nào có thể xuyên tạc, kích động/.

 

 

Oct 3, 2024

Đằng sau sự “hiến kế” về chống tham nhũng của các “Zận chủ”

          Tre Việt - Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam có những bước tiến quan trọng, rất đáng ghi nhận. Thế nhưng, với những âm mưu, thủ đoạn thâm độc, các thế lực thù địch núp bóng các nhà “Zận chủ” vẫn ra sức phủ nhận thành quả phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta. Chúng quy chụp rằng: tham nhũng ở Việt Nam là hệ quả của việc Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo. Và, để phòng, chống tham nhũng hiệu quả thì chúng hồ đồ “hiến kế”: Việt Nam muốn chống tham nhũng thì phải thay đổi hoàn toàn cơ chế hiện tại.

Đây là luận điệu xuyên tạc, bịa đặt, hoàn toàn thiếu cơ sở phải kiên quyết đấu tranh bác bỏ. Bởi vì, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, biến chất là hiện tượng mang tính xã hội, tồn tại ở các quốc gia, do quyền lực nhà nước bị thao túng, tha hóa gây ra, không phân biệt chế độ xã hội, thể chế chính trị nào, chế độ đa đảng hay một đảng lãnh đạo. Có nghĩa, ở bất cứ nơi nào có quyền lực và quyền lực chính trị mà bị tha hóa, lạm dụng thì nơi ấy sinh ra tham nhũng. Nói đến nhà nước là nói đến quyền lực - một quyền lực to lớn và sự lạm quyền, lộng quyền, quyền lực có nguy cơ bị “tha hóa” là điều dễ xảy ra; tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh của quyền lực”. Tham nhũng là “căn bệnh” của nhà nước, có nhà nước là có tham nhũng, có chăng chỉ khác nhau ở mức độ nghiêm trọng.

Lịch sử nhân loại cho thấy, chế độ một đảng lãnh đạo hoàn toàn không phải là “cha đẻ” của tệ nạn tham nhũng, suy thoái, biến chất trong giới cầm quyền. Mà thực chất, tham nhũng là tệ nạn nhức nhối, xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới; trong số đó, đa số là các quốc gia thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo, tam quyền phân lập, do giai cấp tư sản lãnh đạo. Không ít quốc gia theo chế độ đa đảng, tình trạng tham nhũng diễn ra trong hệ thống công quyền đã trở thành mối nguy hại lớn, thậm chí đã leo đến tận các nguyên thủ quốc gia. Từ năm 1995, Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) đã công bố chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) hằng năm (dựa trên dữ liệu từ 13 nguồn bên ngoài, bao gồm Ngân hàng Thế giới, Diễn đàn Kinh tế thế giới, rủi ro tư nhân, các công ty tư vấn và các tổ chức khác). Đây là chỉ số toàn cầu hàng đầu về tham nhũng trong khu vực công, cung cấp một cái nhìn tổng thể hằng năm về mức độ tham nhũng tương đối ở 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều đó cho thấy, tham nhũng là vấn nạn chung của mọi quốc gia, chứ không thuộc bất cứ đất nước, hay bộ máy chính quyền nào.

Thực tế đó cho thấy, dù là quốc gia nào, chế độ nào, thời kỳ nào cũng đều sinh ra tham nhũng và vấn nạn này hoàn toàn không phải là “con đẻ” của chế độ một đảng lãnh đạo. Do đó, việc một số cá nhân, tổ chức thù địch, thiếu thiện chí cho rằng, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, biến chất là “căn bệnh nan y”, chỉ xảy ra ở các quốc gia do Đảng Cộng sản lãnh đạo hay ở quốc gia do một đảng lãnh đạo, cầm quyền là hoàn toàn không đúng với thực tế và hòng hiện thực những thủ đoạn chính trị thâm độc, xấu xa. Trước hết, chúng hướng đến việc tạo nên sự hoài nghi, hoang mang, dao động, gây lầm tưởng tham nhũng phức tạp là do chế độ một đảng lãnh đạo, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ. Đồng thời, thông qua đó, các đối tượng nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng và toàn xã hội; mà trực tiếp, trước hết là sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định tham nhũng, tiêu cực là “giặc nội xâm”; một trong các nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, cản trở tiến trình phát triển của đất nước, phải kiên quyết đấu tranh loại ra khỏi đời sống xã hội. Đảng ta kiên định, phải chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, tiêu cực; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí, hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng; không có ngoại lệ, không có “vùng cấm” trong chống tham nhũng ở Việt Nam.

Kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua giúp Việt Nam không ngừng ổn định, phát triển, tạo thế và lực của đất nước trên trường quốc tế. Đặc biệt, từ kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, niềm tin của nhân dân dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa được nâng lên. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc chiến phức tạp, còn kéo dài với nhiều gian khổ, hiểm nguy nên tinh thần là phải tiếp tục làm, làm quyết liệt, làm tập trung, dứt điểm; đòi hỏi sự kiên quyết, kiên trì, chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Để thực hiện điều đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng phải nêu cao tinh thần, dũng khí đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, quyết liệt chống chủ nghĩa cá nhân, xem đó là “thang thuốc hay nhất”, để đấu tranh phòng, chống tham nhũng - thứ “giặc nội xâm” đạt hiệu quả.

Như vậy cả lý luận và thực tiễn đều minh chứng: chế độ một đảng lãnh đạo hoàn toàn không phải là “cha đẻ” của tệ nạn tham nhũng. Đồng thời, vạch mặt thủ đoạn nham hiểm của cái gọi là sự “hiến kế” về chống tham nhũng của các “Zận chủ”./.

Oct 2, 2024

Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là không thể xuyên tạc, phủ nhận

         Tre Việt - Ngày 27/9, tại Geneve, Thụy Sỹ, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc đã thông qua Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo cơ chế Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR) chu kỳ IV, với hơn 90 nước, các tổ chức quốc tế và một số tổ chức phi chính phủ tham dự.

Tại Hội nghị, Việt Nam đã thông báo quyết định chấp thuận 271 trên tổng số 320 khuyến nghị các nước đưa ra, đạt tỷ lệ 84,7%. Đây là tỷ lệ chấp thuận cao nhất của Việt Nam trong 04 chu kỳ. Điều này thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với tiến trình UPR, cũng như khẳng định mong muốn và quyết tâm của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.

Tuyệt đại đa số các ý kiến phát biểu tai Hội nghị đều đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam, sự tham gia của Đoàn Việt Nam trong trao đổi, đối thoại cởi mở, thẳng thắn, có nhiều thông tin hữu ích, giúp cộng đồng quốc tế hiểu hơn về tình hình Việt Nam. Đồng thời, đoàn Việt Nam cũng đã kịp thời có những ý kiến phản bác những luận điệu sai lệch, sử dụng những thông tin chưa được kiểm chứng thể hiện định kiến về Việt Nam trong phát biểu của một số ít tổ chức phi chính phủ tại Phiên họp. Khẳng định Việt Nam luôn tạo môi trường thuận lợi cho người dân tham gia đóng góp xây dựng chính sách pháp luật; thực hiện các quyền con người cũng cần dựa trên thượng tôn pháp luật, tôn trọng quyền và lợi ích của cá nhân, cộng đồng, vì sự ổn định và thịnh vượng của cả đất nước. Và, nhấn mạnh quyết tâm không khoan nhượng trước những hành động lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để kích động, gây bất ổn. 

Điều đặc biệt xúc động là, tại Phiên họp ngày 27/9, các nước, bạn bè quốc tế đã bày tỏ tình cảm đoàn kết, chia sẻ với những đau thương, mất mát do cơn bão Yagi vừa gây ra cho nhân dân Việt Nam; các đại biểu đều bày tỏ với nỗ lực, cam kết của Chính phủ, đời sống lao động, sản xuất của người dân sẽ sớm được ổn định, hậu quả sớm được khắc phục để tiếp tục đà tăng trưởng. Đồng thời, đánh giá cao ý nghĩa của việc Việt Nam tiến hành các hoạt động đối thoại về UPR tại Hội đồng Nhân quyền lần này đúng vào năm 2024, kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ và ký kết Hiệp định Geneva về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; một số phát biểu cũng điểm lại quá trình đấu tranh của nhân dân Việt Nam để tự quyết định vận mệnh và con đường đi tới độc lập, tự do, hạnh phúc, coi đó là nền tảng để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam.

Với mục đích chính của Phiên họp là về kết quả rà soát chu kỳ IV với Việt Nam, tất cả các nước phát biểu đều khuyến nghị Hội đồng Nhân quyền thông qua báo cáo quốc gia chu kỳ IV của Việt Nam, cùng lập trường với 320 khuyến nghị mà Việt Nam đã thông báo. Các nước đều hoan nghênh việc Việt Nam chấp thuận số lượng lớn các khuyến nghị, thể hiện cam kết mạnh mẽ với tiến trình UPR nói riêng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người nói chung. Các nước cũng có những đánh giá tích cực về nỗ lực, thành tựu của Việt Nam trên một số khía cạnh, như: thúc đẩy phát triển bền vững để bảo đảm tốt hơn quyền con người, có cách tiếp cận giảm nghèo đa chiều, quan tâm đến thúc đẩy bình đẳng giới và bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương; đồng thời, đề nghị Việt Nam tiếp tục chia sẻ cùng các nước. 

Các ý kiến đã đánh giá toàn diện, khách quan, sát với thực tế ở Việt Nam cho thấy các đối tác quốc tế có sự quan tâm tích cực, hiểu biết sâu sắc với thông tin được cập nhật về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa và quá trình phát triển, cũng như thể hiện vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế đa phương. Đây là minh chứng mạnh mẽ nhất bác bỏ mọi xuyên tạc về những nỗ lực của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người mà các thế lực thù địch vẫn rêu rao./.