Jul 30, 2025

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đứng sau những tổ chức “xã hội dân sự”

         “Xã hội dân sự” (civil society) là khái niệm phổ biến ở phương Tây, được hiểu là tổng thể các tổ chức, hội nhóm độc lập với Nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, tự nguyện và phi lợi nhuận. Trên thế giới, nhiều tổ chức “xã hội dân sự” đã góp phần kiểm soát quyền lực, thúc đẩy dân chủ. Tuy nhiên, cũng không ít trường hợp các tổ chức này bị lợi dụng để tạo ra các lực lượng đối lập, kích động bạo loạn, lật đổ chính quyền.

Trong vài thập kỷ gần đây, hiện tượng “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” đã xuất hiện ở nhiều quốc gia như Gruzia, Ukraine, Ai Cập, Tunisia,… với sự tham gia, tiếp tay của các tổ chức núp danh “xã hội dân sự”. Bản chất các phong trào này là hình thức đấu tranh bất bạo động do các thế lực thù địch hậu thuẫn nhằm thay đổi thể chế chính trị.

Tại Việt Nam, từ sau đổi mới (1986), nhiều hội nhóm phi chính phủ, xã hội - nghề nghiệp được thành lập và hoạt động hợp pháp, góp phần vào công cuộc phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những tổ chức tích cực, cũng xuất hiện không ít hội, nhóm núp bóng “xã hội dân sự” nhưng thực chất là công cụ để các thế lực phản động, thù địch lợi dụng chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Có thể nhận diện một số âm mưu, thủ đoạn chính đứng sau những tổ chức “xã hội dân sự” của các thế lực thù địch, phản động như sau:

Thứ nhất, lợi dụng các tổ chức “xã hội dân sự” để gây sức ép về dân chủ, nhân quyền, can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Chúng tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta vi phạm quyền con người, yêu cầu ban hành các “đạo luật”, “nghị quyết” và các văn bản về nhân quyền để tạo “cơ sở pháp lý” cho các hoạt động chống phá; lợi dụng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đang diễn ra của một bộ phận cán bộ, đảng viên để thổi phồng, cường điệu hóa những khuyết điểm, hạn chế của ta từ đó “hạ bệ” uy tín của Đảng, lôi kéo người dân tham gia các tổ chức mang danh nghĩa “xã hội dân sự” để tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Thứ hai, kết hợp với các thế lực bên ngoài để xâm nhập, tác động, chuyển hóa chính trị. Để thực hiện âm mưu trên, chúng triển khai nhiều dự án tài trợ, các tổ chức phi chính phủ (Non Governmental Organization - NGO) ở nước ngoài để tìm cách triển khai tổ chức hội thảo, xuất bản, phát hành tài liệu, văn bản luật nước ngoài công khai. Nhất là sau khi Bộ Công an công bố “Việt Tân” là tổ chức khủng bố, để tiếp tục phát triển lực lượng trong nước, RISE - tổ chức ngoại vi của tổ chức phản động lưu vong ra đời hoạt động dưới vỏ bọc NGO theo mô hình tổ chức “xã hội dân sự”, dưới danh nghĩa bảo vệ môi trường, nhu cầu dân sinh để kích động bạo loạn, biểu tình trong nước; huấn luyện đào tạo các hội nhóm, cá nhân người Việt trong, ngoài nước nhằm gây dựng, tập hợp lực lượng đối lập để hạ thấp vai trò, uy tín của các tổ chức chính trị - xã hội trong nước, đề cao vai trò của tổ chức “xã hội dân sự” trong các hoạt động từ thiện, nhân đạo nhằm thu hút sự ủng hộ tham gia của người dân.

Thứ ba, thành lập các diễn đàn “xã hội dân sự” trên không gian mạng để tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước ta và tập hợp lực lượng chống đối. Trên các diễn đàn “xã hội dân sự”, hiện nay chúng tập trung kêu gọi đòi quyền tự do ngôn luận, báo chí, đặc biệt là tự do Internet, mạng xã hội. Đặc biệt, núp dưới danh nghĩa “phản biện xã hội”, “đóng góp ý kiến” chúng còn liên kết chặt chẽ với các tổ chức “xã hội dân sự” bên ngoài kêu gọi hình thành, phát triển lực lượng, chủ yếu tập trung vào giới trí thức, sinh viên, số cực đoan tôn giáo và cán bộ, đảng viên tha hóa, biến chất, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy hình thành tổ chức “Công đoàn độc lập” bất hợp pháp theo xu hướng tự do, thoát ly Đảng, Nhà nước. Bản chất đó là thủ đoạn chính trị của các thế lực thù địch hòng kích động hận thù dân tộc; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phủ nhận thành quả cách mạng, bôi nhọ lãnh đạo; chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; phá hoại quan hệ quốc tế của Nhà nước ta.

Thứ tư, tuyệt đối hóa tính độc lập tương đối của “xã hội dân sự” nhằm từng bước đối lập với Đảng, Nhà nước để thực hiện các cuộc “Cách mạng màu”. Dưới sự chống lưng của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài kết hợp với các tổ chức phản động trong nước trực tiếp tiến hành thông qua các phương tiện thông tin, truyền thông để tạo ra các chấn động xã hội, tác động mạnh đến nhận thức của người dân, từ đó lôi kéo, tổ chức biểu tình chống phá chính quyền; khi biểu tình lan rộng thu hút nhiều người tham gia chúng sẽ chuyển từ phương thức đấu tranh “bất bạo động”, ôn hòa sang phương thức “bạo động”, lật đổ chính quyền; gây mất ổn định chính trị, tiến tới thay đổi chế độ nước ta.

Trước tình hình phức tạp trên không gian mạng cùng các hoạt động chống phá có tổ chức của các thế lực thù địch, phản động, cần triển khai một số giải pháp sau:

Thứ nhất, nhận thức đúng về “xã hội dân sự” cần làm rõ bản chất, giới hạn và các hình thức lợi dụng “xã hội dân sự” của các thế lực thù địch. Đặc biệt, cần đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế giám sát Đảng, Nhà nước cần ban hành các quy định rõ ràng về việc thành lập, hoạt động và giám sát các tổ chức ngoài nhà nước.

Thứ ba, đẩy mạnh đấu tranh truyền thông, huy động lực lượng báo chí, truyền thông chính thống, đặc biệt là trên không gian mạng để phản bác các luận điệu sai trái

Thứ tư, giám sát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, tăng cường nắm chắc tình hình hoạt động của các tổ chức hội, nhóm để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

Hiện nay “xã hội dân sự” không phải là vấn đề mới, tuy nhiên nó đang có xu hướng phát triển gia tăng tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị của đất nước, là điều kiện để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng nhằm thực hiện hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta. Vì vậy, phải nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động nhận diện âm mưu, thủ đoạn đứng sau các hội, nhóm, mang màu sắc “xã hội dân sự”; cần có sự tham gia tích cực, chủ động của toàn Đảng, toàn dân, ở tất cả các cấp, các ngành và lực lượng vũ trang trong việc đấu tranh ngăn chặn hoạt động lợi dụng các tổ chức “xã hội dân sự” để chống phá Đảng, Nhà nước ta./.

 (Trích nguồn: Huongsenviet.com)

Jul 29, 2025

Không thể xuyên tạc vai trò của Quân đội trong cứu hộ, cứu nạn

 

Trên trang “Danchimviet”, Dân Trần cho rằng: “Quân đội dùng trực thăng chỉ để biểu diễn, lúc dân cần thì chẳng thấy đâu; bộ đội thì tay không bắt giặc, trang bị thô sơ, thiếu thốn đến mức chẳng thể cứu người, thậm chí còn không tự bảo vệ được mình thì làm sao bảo vệ dân, bảo vệ đất nước”. Đây là luận điệu xuyên tạc, bóp méo bản chất, phủ nhận vai trò, uy tín, sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng thời, gieo rắc tâm lý hoài nghi, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Trước những luận điệu nguy hiểm đó, cần thiết phải vạch trần, đấu tranh bác bỏ; cần khẳng định rõ sự thật về năng lực, bản lĩnh, trang bị và tinh thần sẵn sàng hy sinh của người lính Cụ Hồ trong mọi tình huống, từ phòng, chống thiên tai đến bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

1. Những luận điệu xuyên tạc phi lý, vô căn cứ, cố tình kích động của Dân Trần. Trước hết, cần khẳng định, Dân Trần đã cố tình cắt, ghép một vài hình ảnh mang tính cá biệt, không phản ánh đầy đủ thực tiễn để quy chụp, bôi nhọ toàn bộ lực lượng Quân đội. Do đó, cần đặt câu hỏi ngược lại: Nếu đúng như y nói, tại sao suốt bao năm qua, mỗi khi thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn, sự cố sập hầm, sập nhà, tai nạn giao thông đường thủy, đường bộ… xảy ra, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn là lực lượng đầu tiên có mặt tại hiện trường, sẵn sàng lao vào nơi nguy hiểm nhất để cứu dân? Tại sao, trong những đợt thiên tai thảm khốc nhất như: Cơn bão số 12 năm 2017, trận lũ lụt miền Trung năm 2020, sạt lở đất kinh hoàng ở Rào Trăng 3 (Thừa Thiên Huế), trận bão Yagi (9/2024),… những người lính “Bộ đội Cụ Hồ” với trang bị thô sơ như cuốc, xẻng, dây thừng, mũ cối ấy lại là những người đào bới, tìm kiếm nạn nhân, bất chấp hiểm nguy?

Thực chất, Dân Trần đã cố tình lẫn lộn giữa tính chất của nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn với hoạt động tác chiến, chiến đấu, rồi từ đó xuyên tạc, hạ thấp uy tín Quân đội nhân dân Việt Nam. Y cho rằng trang bị cứu hộ sơ sài là bằng chứng cho thấy quân đội yếu kém, không đủ năng lực ứng phó khi đất nước có chiến tranh. Đây là sự so sánh khập khiễng, phản khoa học và thể hiện rõ bản chất chống phá, phá hoại niềm tin của nhân dân vào lực lượng vũ trang cách mạng.

2. Năng lực, trang bị và tinh thần sẵn sàng cứu hộ, cứu nạn của Quân đội nhân dân Việt Nam là không thể phủ nhận. Thực tiễn cho thấy, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở, với đầy đủ các thành phần quân, binh chủng hợp thành. Trong đó, các lực lượng cứu hộ, cứu nạn là bộ phận chuyên trách, luôn được huấn luyện, trang bị phù hợp với điều kiện, địa bàn và đặc thù nhiệm vụ.

Về phương tiện, trang bị, lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay được đầu tư nhiều phương tiện hiện đại phục vụ cứu hộ, cứu nạn như máy bay trực thăng, tàu cứu hộ đa năng, xe chuyên dụng, xuồng cao tốc, thiết bị lặn, thiết bị định vị, thiết bị dò tìm nạn nhân trong đống đổ nát, hệ thống thông tin liên lạc tiên tiến, v.v. Tuy nhiên, việc sử dụng phương tiện hiện đại như trực thăng phải tuân theo nguyên tắc, quy trình chặt chẽ, căn cứ vào tình hình thực tế, điều kiện thời tiết, địa hình, địa bàn xảy ra sự cố. Không thể ngụy biện rằng cứ mỗi khi có thiên tai là trực thăng phải lập tức xuất hiện, bất chấp thời tiết xấu, gió lớn, bão mạnh – điều này không chỉ nguy hiểm cho phi hành đoàn mà còn có thể gây tai nạn, tổn thất nặng nề hơn.

Đáng chú ý, theo báo cáo của Bộ Quốc phòng, từ năm 2016 đến nay, không quân Việt Nam đã triển khai hàng trăm chuyến bay trực thăng phục vụ cứu hộ, cứu nạn, vận chuyển hàng hóa, nhu yếu phẩm tới các vùng bị cô lập do thiên tai. Điển hình như trong đợt mưa lũ lịch sử tại miền Trung tháng 10/2020, các đơn vị không quân đã huy động trực thăng vận chuyển hàng trăm tấn hàng cứu trợ, đưa lực lượng và nhu yếu phẩm tiếp cận những khu vực bị chia cắt hoàn toàn. Nói như vậy để thấy rằng, luận điệu “trực thăng chỉ để biểu diễn” của Dân Trần là hoàn toàn bịa đặt, xuyên tạc, phủ nhận nỗ lực không biết mệt mỏi của bộ đội.

Về trang bị cá nhân của lực lượng cứu hộ, tùy theo từng nhiệm vụ cụ thể, điều kiện địa hình, khí hậu mà bộ đội sử dụng các phương tiện, công cụ phù hợp. Việc bộ đội dùng cuốc, xẻng, cưa, búa, dây thừng trong các tình huống tìm kiếm, cứu hộ không phản ánh sự thiếu thốn, mà là sự linh hoạt, phù hợp với điều kiện địa hình phức tạp như đồi núi, rừng sâu, nơi xe cơ giới hoặc phương tiện lớn khó tiếp cận. Chính nhờ sự dũng cảm, tận tụy, linh hoạt đó mà hàng nghìn người dân bị mắc kẹt, gặp nạn đã được cứu sống qua các đợt thiên tai, sự cố nghiêm trọng trong thời gian qua.

Tóm lại, dù trong thời chiến hay thời bình, dù phải đối mặt với thiên tai khốc liệt hay âm mưu phá hoại tinh vi của các thế lực thù địch, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Những hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong cứu hộ, cứu nạn đã khẳng định rõ bản lĩnh, năng lực và tinh thần “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”. Chính vì vậy, mỗi chúng ta cần kiên quyết vạch trần, phản bác mọi luận điệu xuyên tạc, giữ vững niềm tin sắt son vào lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam - lực lượng trọng yếu, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.com)

 

Jul 25, 2025

“FDI cắm trại” - Luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành tựu thu hút FDI ở Việt Nam cần bác bỏ

          Tre Việt - Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia ngày càng gay gắt, việc thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vừa là vấn đề kinh tế, nhưng cũng liên quan đến độc lập, tự chủ, an ninh quốc gia. Tuy nhiên, một số thế lực thù địch, phản động lại cố tình xuyên tạc, phủ nhận nỗ lực của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập hiệu quả. Điển hình là bài đăng ngày 25/7/2025 trên trang facebook của tổ chức phản động “Việt Tân” do Phạm Ngọc Hưng thực hiện, cho rằng FDI vào Việt Nam là “FDI cắm trại”, không tạo ra chuyển giao công nghệ, không phát triển công nghiệp phụ trợ, chỉ “phát triển ngoài da thịt kinh tế quốc dân”. Đây là một luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành tựu thu hút FDI ở Việt Nam cần đấu tranh bác bỏ.

        Thứ nhất, bài viết thể hiện rõ quan điểm phiến diện, so sánh khập khiễng và có dụng ý chia rẽ, hạ thấp vị thế Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Tác giả lấy Trung Quốc làm “chuẩn” để chê bai Việt Nam mà không tính đến điều kiện lịch sử, chính trị, quy mô thị trường, cơ cấu thể chế, chiến lược phát triển của hai quốc gia là hoàn toàn khác biệt. Việc Trung Quốc gia nhập WTO trước hay áp dụng mô hình ép buộc chuyển giao công nghệ không thể là cái cớ để phủ nhận con đường phát triển riêng có, bền vững, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

        Thứ hai, việc dùng khái niệm “FDI cắm trại” để mô tả FDI tại Việt Nam là cách ngụy tạo luận điểm nhằm cổ súy cho tư tưởng hoài nghi, bi quan, đổ lỗi cho mô hình phát triển. Luận điệu này vừa mang tính phủ định sạch trơn, vừa khích lệ tâm lý bài xích thể chế, xúc phạm nỗ lực thu hút đầu tư minh bạch, có chọn lọc của Đảng và Chính phủ ta trong suốt gần bốn thập niên qua. Trái với luận điệu xuyên tạc của Việt Tân, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ sau Đổi mới đến nay không ngừng gia tăng cả về lượng và chất, đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu, giải quyết việc làm, phát triển công nghệ và hội nhập quốc tế. Theo báo cáo của Cục Thống kê, Bộ Tài chính, 6 tháng đầu năm 2025, vốn FDI thực hiện ước đạt 11,72 tỉ USD, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước (mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây), Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 9,56 tỉ USD, chiếm 81,6% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 932,2 triệu USD, chiếm 8,0%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 444,7 triệu USD, chiếm 3,8%. Bên cạnh đó, các tập đoàn đa quốc gia như Samsung, Intel, LG, Foxconn, Bosch, Toyota, Canon,… không ngừng mở rộng đầu tư, lựa chọn Việt Nam là cứ điểm chiến lược trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Những con số này đã tự bác bỏ hoàn toàn cái gọi là “FDI không mua gì từ bản địa”.

         Không dừng lại ở thu hút vốn, Việt Nam đã và đang có nhiều bước tiến trong yêu cầu doanh nghiệp FDI tham gia sâu vào phát triển công nghiệp phụ trợ và chuyển giao công nghệ. Hàng loạt khu công nghiệp chuyên biệt, trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, các chương trình kết nối doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước đang được triển khai mạnh mẽ. Chính sách thu hút FDI hiện nay không còn chạy theo số lượng, mà hướng tới “chọn lọc”, gắn chặt với mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và nâng cao năng lực nội sinh của nền kinh tế. Quan điểm nhất quán này của Đảng ta được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Trong đó, Việt Nam chủ trương thu hút FDI có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường làm tiêu chí đánh giá chủ yếu. Đồng thời, tăng cường liên kết giữa FDI và doanh nghiệp trong nước, nâng cao năng lực hấp thu công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Trên tinh thần đó, Chính phủ đã có nhiều hành động cụ thể: ban hành Luật Đầu tư sửa đổi, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, hoàn thiện hệ thống logistics, nâng cao năng lực của cơ quan xúc tiến đầu tư, tăng cường năng lực giám sát FDI sau cấp phép, v.v.

          Tóm lại, bài viết của Phạm Ngọc Hưng không những xuyên tạc về mô hình thu hút FDI của Việt Nam, mà còn ẩn chứa mưu đồ chống phá nền tảng phát triển kinh tế của đất nước, làm suy giảm niềm tin nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, cần tỉnh táo nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác, đồng thời lan tỏa những thành tựu chân thực của đất nước ta đến cộng đồng quốc tế vì một Việt Nam hùng cường, tự cường và vững bước trên con đường hội nhập./.


Cảnh giác trước luận điệu chống phá của Chân Trời Mới Media về Hội nghị Trung ương 12

         Tre Việt - Ngày 24/7, trang facebook Chân Trời Mới Media đăng status: “Việc tổ chức Hội nghị Trung ương 12 sớm bất thường, và với cách xử lý kỷ luật thẳng tay lần này, ông Tô Lâm đã gửi đi một tín hiệu rõ ràng sẽ không có chỗ cho những ai còn chần chừ chưa dứt khoát chọn phe cho mình”. Đây là luận điệu xuyên tạc, phủ nhận ý nghĩa quan trọng và những kết quả, thành công rất tốt đẹp mà Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã đạt được, nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo, chia rẽ đoàn kết, thống nhất trong Đảng và uy tín của cá nhân đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm. Sâu xa hơn cả, chính là nhằm chống phá Đại hội XIV của Đảng ta.

       Chúng ta đều biết, sáng ngày 18/7, tại tại Trụ sở Trung ương Đảng (Thủ đô Hà Nội), Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) chính thức khai mạc. Sau 2 ngày làm việc với tinh thần khẩn trương, nghiêm túc, dân chủ, trách nhiệm cao, chiều ngày 19/7, Hội nghị đã họp phiên bế mạc.

        Đây là Hội nghị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, được triệu tập sớm hơn gần 3 tháng so với kế hoạch đề ra, điều đó đã thể hiện tinh thần chủ động, khẩn trương, trách nhiệm cao của toàn Đảng trong việc chuẩn bị một cách toàn diện, kỹ lưỡng các nội dung trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Phát biểu tại phiên bế mạc, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Hội nghị đánh dấu bước đi quan trọng trong quá trình chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Kết quả của Hội nghị thể hiện rõ tinh thần đổi mới tư duy, hành động quyết liệt, đoàn kết - dân chủ - kỷ cương - sáng tạo - phát triển. Các đại biểu đã phát huy tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, thảo luận dân chủ, thẳng thắn, khách quan và cầu thị; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Không để bất kỳ lợi ích cục bộ, cảm tính cá nhân hay nể nang, né tránh làm ảnh hưởng tới chất lượng quyết sách.

         Theo đó, tại Hội nghị này, Trung ương đã bàn, quyết định nhiều vấn đề quan trọng như: tích hợp nội dung 3 văn kiện gồm Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng thành Báo cáo chính trị theo một trục xuyên suốt, thống nhất, đồng bộ để trình Đại hội XIV của Đảng. Trung ương cũng đã xem xét, cho ý kiến chỉ đạo về việc tổng kết thực tiễn, đánh giá các vướng mắc, bất cập trong một số luật và thể chế hiện hành, từ đó định hướng sửa đổi nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn pháp lý, thúc đẩy phát triển trong giai đoạn mới, như: lĩnh vực đất đai; lĩnh vực giáo dục, đào tạo; điều chỉnh quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; về kết quả sơ bộ sau 19 ngày vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp, v.v.

         Đặc biệt, Trung ương cũng đã thống nhất nhận định, phương hướng công tác nhân sự Đại hội XIV của Đảng là văn bản đặc biệt quan trọng, quyết định toàn bộ công tác chuẩn bị và bầu cử nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước, góp phần vào thành công Đại hội XIV của Đảng. Phương hướng công tác nhân sự Đại hội XIV phải có sự gắn kết chặt chẽ với phương án bố trí nhân sự đảm nhiệm các chức danh lãnh đạo chủ chốt của các ban, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị ở Trung ương, địa phương nhiệm kỳ 2026 - 2031 và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội nhiệm kỳ tới. Cùng với đó, phải có giải pháp, biện pháp hiệu quả để hạn chế, sớm khắc phục tình trạng nhân sự vừa được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoặc mới được quy hoạch, bổ nhiệm đã phải xem xét kiểm điểm, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

         Cũng tại Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức cách tất cả các chức vụ trong Đảng đối với các đồng chí: Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ, Lê Minh Khái; khai trừ khỏi Đảng đối với đồng chí Nguyễn Thị Kim Tiến; đồng ý để đồng chí Đỗ Đức Duy, thôi giữ chức Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) và đồng chí Võ Chí Công thôi giữ chức Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII).

          Điều đó cho thấy, công tác nhân sự Đại hội XIII và công tác cán bộ của Đảng đã được Trung ương bàn và quyết định rất chặt chẽ và nghiêm túc, thể hiện tinh thần đoàn kết, kỷ cương, kỷ luật của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Luận điệu mà Chân Trời Mới Media xuyên tạc: “sẽ không có chỗ cho những ai còn chần chừ chưa dứt khoát chọn phe cho mình” là sự quy chụp lố bịch, nhằm chia rẽ đoàn kết, thống nhất trong Đảng, chống phá công tác nhân sự Đại hội XIV của Đảng. Do đó, cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ./.


Bác bỏ luận điệu xuyên tạc về thực hiện dân chủ ở Việt Nam

          Tre Việt - Ngày 24/7, trang facebook Việt Tân đăng bài Không qua trưng cầu dân ý, Cộng sản Việt Nam cứ áp đặt mọi chính sách”. Đây là quan điểm phiến diện, so sánh máy móc với mô hình dân chủ phương Tây, thiếu hiểu biết đầy đủ về cơ chế tham vấn, phản biện và biểu hiện dân chủ đặc thù trong điều kiện thực tiễn Việt Nam,... cần bác bỏ thông qua làm rõ bốn khía cạnh chính.

Một là, dân chủ ở Việt Nam là dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về Nhân dân. Dân chủ không chỉ là “hình thức tổ chức chính trị”, mà còn là “phương thức tổ chức quyền lực nhân dân”. Việt Nam lựa chọn mô hình dân chủ xã hội chủ nghĩa – tức dân chủ gắn với lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng - vì nó phù hợp với lịch sử, văn hóa và điều kiện phát triển đất nước. Dân chủ không phải là “muốn gì làm nấy”, phải gắn với kỷ luật, kỷ cương; cũng không phải chỉ được thể hiện qua các cuộc trưng cầu ý kiến Nhân dân, mà được thể hiện ở nhiều hình thức, cấp độ. Trong dân chủ xã hội chủ nghĩa, bản chất là bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân, được thể hiện thông qua dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện: quốc hội do dân bầu, chính quyền các cấp do dân lựa chọn và Đảng lãnh đạo nhưng không đứng trên pháp luật. Mọi quyết sách đều phải trải qua quy trình chuẩn bị, phản biện xã hội, lấy ý kiến người dân, tổ chức đối thoại và chỉnh sửa phù hợp thực tiễn. Đây chính là biểu hiện của dân chủ thực chất, không hình thức. Vì vậy, việc đánh giá mức độ dân chủ của một quốc gia dựa trên tiêu chí trưng cầu dân ý hay mô hình đa đảng là thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn.

Hai là, chính sách của Nhà nước luôn dựa trên ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Trên thực tế, mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đều trải qua quy trình: (1). Tham vấn và lấy ý kiến Nhân dân; trước khi ban hành các luật, chính sách lớn, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành đều công bố dự thảo công khai trên Cổng thông tin điện tử để Nhân dân, chuyên gia, nhà khoa học góp ý. Ví dụ, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2023 thu hút hơn 12 triệu lượt ý kiến góp ý; Luật Căn cước công dân, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Phòng chống bạo lực gia đình... đều tổ chức trưng cầu, đối thoại, thảo luận công khai tại các cấp cơ sở. (2). Thảo luận tại Quốc hội; các đại biểu Quốc hội được bầu cử phổ thông đầu phiếu trực tiếp là người đại diện cho ý chí Nhân dân, có trách nhiệm mang tiếng nói của Nhân dân đến nghị trường, góp ý, chất vấn, giám sát và biểu quyết thông qua chính sách. Tất cả các chính sách như: các Luật, ngân sách nhà nước, quy hoạch, phát triển,… đều do cơ quan dân cử này quyết định. Đây là hình thức dân chủ đại diện đúng nghĩa.

Ba là, trưng cầu dân ý không phải là tiêu chí duy nhất của dân chủ. Điều 29 Hiến pháp năm 2013 và Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, quy định: việc trưng cầu dân ý có thể được tổ chức đối với các vấn đề lớn, như: Hiến pháp, chủ quyền quốc gia, việc gia nhập các liên minh quốc tế, chính sách đặc biệt ảnh hưởng đến đời sống toàn dân. Do đó, việc nói Việt Nam “không có trưng cầu dân ý” là sai hoàn toàn. Như vậy, trưng cầu dân ý không phải là hình thức bắt buộc đối với mọi chính sách; ngay cả nhiều nước phương Tây như Mỹ, Anh, Nhật, Canada…. cũng không thường xuyên dùng đến hình thức này.

Nhiều chính sách tại Việt Nam được quyết định bằng phương pháp dân chủ gián tiếp (thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân), dân chủ cơ sở (họp tổ dân phố, lấy ý kiến khu dân cư), và cả các hình thức dân chủ trực tiếp, như: Lấy ý kiến toàn dân về quy hoạch đô thị; Tổ chức hội nghị nhân dân tại xã/phường về các vấn đề hạ tầng, an sinh; Thực hiện mô hình “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”,... là biểu hiện thực chất, sâu sắc của dân chủ xã hội chủ nghĩa, không phải là hình thức “áp đặt” từ trên xuống. Việc phân cấp quyền lực cho cơ quan chuyên trách và đại biểu Nhân dân là mô hình phù hợp, khoa học và hiệu quả hơn là trưng cầu thường xuyên..

Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong những năm qua, như: GDP tăng trưởng liên tục, thuộc nhóm cao nhất khu vực; Tỷ lệ đói nghèo giảm từ hơn 70% (năm 1986) xuống dưới 3% (năm 2023); Hệ thống y tế, giáo dục, an sinh xã hội liên tục được cải thiện; Tham gia sâu rộng vào các hiệp định thương mại quốc tế (CPTPP, EVFTA…),... cho thấy tính đồng thuận và phù hợp của chính sách phát triển chính là minh chứng rõ ràng nhất phản bác luận điệu “chính sách áp đặt”./.

Thuế - Nghĩa vụ, trách nhiệm và sự công bằng

        Tre Việt - Để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước; đồng thời, khắc phục bất cập, bịt lỗ hổng pháp luật, chống thất thu ngân sách, gian lận thuế,… năm 2025, Nhà nước ta đã ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quy định về thuế giá trị gia tăng, hóa đơn, chứng từ, đánh dấu bước chuyển mình trong quản lý thuế, hướng tới minh bạch hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.

Tuy nhiên, lợi dụng những hạn chế bước đầu trong sử dụng hóa đơn điện tử, kỹ năng số của Nhân dân, nhất là một bộ phận người kinh doanh có tâm lý lo lắng trước chính sách thuế mới, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ráo riết tuyên truyền xuyên tạc về chính sách thuế của Nhà nước ta. Họ rêu rao trên các trang mạng xã hội rằng, chính sách thuế của Nhà nước ta là “tận thu để dân khổ”, là “siết cổ dân”, là “bóc lột tinh vi”, “phi nhân tính”, thậm chí “đẩy các doanh nghiệp đến con đường phá sản”, v.v. Thực chất đây là những luận điệu xuyên tạc, chống phá đất nước.

Trước hết, thực chất âm mưu chống phá phía sau những lời vu cáo. Những kẻ xuyên tạc chính sách thuế mới của Nhà nước ta như ở trên thực chất là những thủ đoạn cố tình cắt xén thông tin, bóp méo bản chất thuế, từ đó vu cáo Nhà nước “bóc lột dân”. Mục đích của họ là nhằm kích động bất mãn trong Nhân dân, chia rẽ lòng tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Họ không phải hành động vì dân, mà để gây bất ổn xã hội, làm suy yếu đất nước, đúng với thủ đoạn “diễn biến hòa bình” mà họ đã dùng hàng chục năm qua. Vì vậy ta phải hết sức tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Thứ hai, về nhận thức. Cần thống nhất rằng, thuế không phải là sản phẩm riêng của Việt Nam, mà là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của bất kỳ quốc gia nào, dù là tư bản, chủ nghĩa xã hội, quân chủ hay dân chủ. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước nhằm duy trì bộ máy, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý, đầu tư phát triển đất nước và bảo đảm an sinh xã hội. Các nước Bắc Âu được các tổ chức uy tín quốc tế đánh giá là những quốc gia hành phúc cũng có thuế thu nhập cá nhân lên tới 45 - 55%, VAT từ 20 - 25%. Như vậy, không có quốc gia nào phát triển mà không thu thuế. Vấn đề quan trọng là thuế thu thế nào, sử dụng ra sao, có công bằng, minh bạch và hợp lòng dân hay không.

Thứ ba, chính sách thuế mới nhằm khắc phục lỗ hổng, hạn chế trong chính sách thuế cũ. Chúng ta cần nhìn thẳng thực tế: hệ thống thuế Việt Nam còn bất cập, vẫn có tình trạng thất thu, gian lận thuế, lãng phí ngân sách. Kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh, thương mại điện tử tăng trưởng 25% mỗi năm, nhưng thất thu thuế rất lớn. Năm 2024, thuế từ thương mại điện tử chỉ chiếm 0,8% thuế thu nhập doanh nghiệp, trong khi thị trường này trị giá hơn 20 tỷ USD. Nếu không siết chặt quản lý, không điều chỉnh chính sách, sẽ nảy sinh bất công, người kinh doanh truyền thống phải đóng đủ, người kinh doanh online thì lại “né” thuế. Thuế mới ra đời không để tận thu, mà để lấp lỗ hổng, tăng minh bạch, bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế chân chính.

Thứ tư, thuế không chỉ để tăng ngân sách mà còn tạo động lực phát triển và bảo đảm an sinh xã hội. Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định thuế không chỉ để tăng thu ngân sách mà quan trọng hơn là tạo động lực phát triển, điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội. Thực tế, nhiều sắc thuế có tác dụng hướng dẫn tiêu dùng, điều chỉnh hành vi sản xuất, bảo vệ môi trường và tạo công bằng giữa các loại hình kinh doanh. Đồng thời, chính sách thuế của Nhà nước ta còn hướng tới bảo đảm an sinh xã hội - tính chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Theo Bộ Tài chính, trong tổng chi ngân sách năm 2024, có gần 700.000 tỉ đồng (27,6%) dành cho an sinh xã hội, bao gồm: trợ cấp người có công, hộ nghèo, trẻ em dưới 06 tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí, miễn giảm học phí, xây bệnh viện, trường học, v.v. Ngay cả chi cho quốc phòng, an ninh cũng là để bảo vệ vững chắc Tổ quốc; từ đó, người dân, doanh nghiệp mới yên tâm làm ăn, sinh sống và thụ hưởng hạnh phúc.

Thứ năm, Đảng, Nhà nước luôn đặt lợi ích Nhân dân lên trên hết. Chính sách thuế của Việt Nam không đặt mục tiêu tận thu mà hướng tới hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cùng phát triển. Trong đại dịch COVID-19, Nhà nước đã miễn giảm, giãn thuế cho hơn 140.000 doanh nghiệp, tổng số tiền trên 78.000 tỉ đồng, để cứu dân, cứu doanh nghiệp. Không có Nhà nước “bóc lột dân” nào lại tự nguyện từ bỏ nguồn thu như thế. Bác Hồ từng nói: “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”. Tinh thần ấy soi rọi mọi chính sách, trong đó có thuế.

Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hãy tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc chủ trưởng, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có chính sách thuế mới, đừng biến mình thành công cụ tiếp tay cho thế lực chống phá đất nước, làm tổn hại lợi ích dân tộc và cộng đồng. Nộp thuế là trách nhiệm, nghĩa vụ, là sự đóng góp tích cực của mỗi doanh nghiệp, người dân để cùng chung tay xây dựng quê hương, đất nước phồn vinh, hạnh phúc và hùng cường./.


Jul 23, 2025

Hạo Nhiên lại phán bừa

          Mới đây, trên trang “Vietnamthoibao”, Hạo Nhiên có bài viết: Hồi hương - Ảo ảnh Việt Nam đang “thịnh vượng và tự do”, với nhiều luận điệu xuyên tạc trắng trợn những thành tựu phát triển của đất nước, hòng làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Luận điệu xuyên tạc: thành tựu mà đất nước và nhân dân ta đạt được từ ngày thống nhất đất nước đến nay chỉ là “một ảo ảnh tạm bợ” đã cho thấy dã tâm chống phá Đảng, Nhà nước ta của Hạo Nhiên. Do đó, mỗi chúng ta cần nêu cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường phát triển trở thành một nước xã hội chủ nghĩa. Sau 50 năm thống nhất đất nước, gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị bao vây, cô lập, đến nay Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập tiệm cận trung bình cao, hội nhập sâu rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, có vai trò chủ động, tích cực tại nhiều tổ chức quốc tế, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2024 đứng thứ 32 thế giới và nằm trong nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, hiện chỉ còn 1,93% (theo chuẩn đa chiều) so với mức hơn 60% năm 1986. Tiềm lực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học – công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố. Quan hệ đối ngoại được mở rộng; vị thế, uy tín của đất nước không ngừng được nâng cao. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 nước là thành viên Liên hợp quốc.

Hai là, mọi tầng lớp nhân dân đều được thụ hưởng thành quả phát triển của đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc gắn kết phát triển kinh tế với phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội đã được thực hiện có hiệu quả; tạo cơ sở kích thích, khơi dậy và phát huy tính tích cực, năng động của con người. Nhờ vậy, các giai tầng xã hội và các chủ thể tự do, tự chủ đầu tư, phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cả về vật chất và tinh thần. Các phúc lợi xã hội trong giáo dục, y tế, nhà ở tại Việt Nam đều được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hiện nay, cả hệ thống chính trị tại Việt Nam đang nỗ lực chung tay hỗ trợ người nghèo xây dựng nhà ở để đến hết năm 2025 sẽ xóa được toàn bộ 400.000 nhà tạm, nhà dột nát trên cả nước. Báo cáo hạnh phúc thế giới năm 2024, Việt Nam đứng thứ 54, tăng 11 bậc so với năm 2023. Xét ở khu vực châu Á, Việt Nam đứng vị trí thứ 6. Đây là bảng xếp hạng do Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố dựa trên kết quả khảo sát tại 143 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chỉ số hạnh phúc tại Việt Nam tăng đều qua các năm cho thấy kết quả đạt được rất quan trọng của Đảng, Nhà nước ta về chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Trong lúc tình hình an ninh của một số khu vực trên thế giới rất phức tạp với cảnh bom rơi đạn lạc thì người dân Việt Nam càng cảm nhận được sự vô giá của hòa bình, hạnh phúc mà mình đang được hưởng.

Như vậy, những luận điệu mà Hạo Nhiên đưa ra đã thể hiện rõ bộ mặt của kẻ phản động, chống phá cách mạng nước ta. Do đó, chúng ta cần nâng cao cảnh giác và đấu tranh kiên quyết với những luận điệu phản động của Y. Đồng thời, luôn vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thành công của sự nghiệp đổi mới, đưa Việt Nam tự tin bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

(Trích nguồn: nhanvanviet.vn)

 

Vạch trần sự thiên vị và động cơ chính trị trong Báo cáo Nhân quyền 2025 của Human Rights Watch về Việt Nam

           Dưới vỏ bọc của một tổ chức phi chính phủ bảo vệ nhân quyền, HRW trong nhiều năm qua đã không ít lần công bố những tài liệu mang tính xuyên tạc, thiên lệch, thiếu cơ sở pháp lý và không đáp ứng tiêu chuẩn đánh giá khách quan. Báo cáo năm nay không phải là ngoại lệ – mà là minh chứng rõ nét cho một chiến dịch có hệ thống nhằm bôi nhọ hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, bất chấp sự thật khách quan và tiến bộ vượt bậc trong thực tiễn bảo đảm quyền con người ở quốc gia này.

Ngay từ những dòng đầu tiên, HRW đã tái sử dụng những cụm từ sáo mòn như “đàn áp chính trị”, “bắt giữ blogger”, “giới hạn tự do biểu đạt” - những luận điệu đã cũ kỹ, không có gì mới ngoài việc tiếp tục lặp lại các cáo buộc không được kiểm chứng, được sao chép gần như nguyên xi từ các nguồn tin phi chính thống, thiên kiến hoặc đến từ những cá nhân có tiền sử vi phạm pháp luật tại Việt Nam. Đáng nói hơn, báo cáo này cố tình gán nhãn “tù nhân lương tâm” cho những đối tượng bị xử lý vì hành vi vi phạm nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội, chứ không phải vì “phát biểu chính kiến ôn hòa” như họ khẳng định.

Ví dụ, trường hợp Nguyễn Chí Tuyến hay Trương Huy San được HRW nêu ra như những người “bị bắt giữ phi pháp”. Tuy nhiên, một tổ chức tôn trọng pháp quyền lẽ ra phải nhận thức được rằng việc lan truyền thông tin sai sự thật, kích động thù hận, kêu gọi lật đổ chính quyền không thể được xem là “tự do biểu đạt”. Hành vi đó tại bất kỳ quốc gia nào, từ Mỹ cho đến Đức, đều bị xử lý bằng hệ thống pháp luật nghiêm khắc. Không thể có chuyện một người vi phạm pháp luật lại được tôn vinh như một biểu tượng nhân quyền - điều đó chẳng khác nào khuyến khích vi phạm pháp luật quốc gia.

Đặc biệt, HRW thể hiện rõ sự thiên vị về mặt nhận thức khi tuyệt đối hóa các quyền dân sự - chính trị theo tiêu chuẩn phương Tây, đồng thời hoàn toàn làm ngơ trước các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa - những lĩnh vực mà Việt Nam đạt được thành tựu nổi bật. Theo UNDP, từ năm 2020 đến 2025, Việt Nam đã giảm tỷ lệ nghèo đa chiều từ gần 10% xuống dưới 3%, vượt cả các chỉ tiêu của Liên Hợp Quốc. Hơn 90% dân số có bảo hiểm y tế, phổ cập giáo dục tiểu học đạt 100%. Những điều đó không phải là nhân quyền thực chất sao?

Một trong những luận điểm sai lệch nhất trong báo cáo HRW 2025 là cáo buộc Việt Nam “không có tự do báo chí và Internet”. Thật phi lý khi khẳng định điều đó trong khi Việt Nam có hơn 70 triệu người dùng Internet - phần lớn đều hoạt động tích cực trên mạng xã hội, nhiều khi với các nội dung phê phán mạnh mẽ chính sách công mà vẫn không bị ngăn cản. Họ chỉ bị xử lý khi hành vi vi phạm cấu thành yếu tố nguy hiểm cho xã hội - như xuyên tạc, bịa đặt tin giả, xúc phạm danh dự người khác, kêu gọi chống phá nhà nước. Điều này phù hợp với cả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), vốn cho phép các quốc gia thành viên giới hạn quyền tự do ngôn luận trong trường hợp cần thiết vì an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng.

Về vấn đề thiểu số và tôn giáo, HRW đã bóp méo hoàn toàn thực tế. Báo cáo không hề đề cập đến chương trình 135 của Việt Nam – một chính sách lớn hỗ trợ vùng dân tộc thiểu số, giúp giảm nghèo bền vững ở Tây Nguyên, Tây Bắc. Các trường hợp bị bắt giữ đều xuất phát từ hành vi vi phạm pháp luật - ví dụ như tổ chức tụ tập trái phép, kích động chia rẽ dân tộc, hay tuyên truyền phản động - chứ không phải do “niềm tin tôn giáo”. Ngược lại, Việt Nam hiện có hơn 20 triệu người theo các tôn giáo khác nhau, với hàng ngàn cơ sở thờ tự được nhà nước hỗ trợ về pháp lý và vật chất. HRW đã cố tình chọn lọc các vụ việc cá biệt, rồi dùng thủ pháp tổng quát hóa để tạo cảm giác về “một hệ thống đàn áp có tổ chức” - một hành vi cực kỳ thiếu đạo đức trong nghiên cứu và công bố thông tin.

Không thể không đề cập đến thủ đoạn liên kết và hậu thuẫn công khai của HRW đối với các cá nhân, tổ chức chống phá Việt Nam. Không ít lần, HRW kêu gọi “thả tù nhân chính trị” - tức là cổ súy cho việc phá hoại nhà nước pháp quyền, gây mất ổn định xã hội. Đây là hành vi can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền. Nếu tổ chức này thật sự khách quan và tuân thủ các nguyên tắc quốc tế, họ phải lên án mọi vi phạm nhân quyền - kể cả ở Mỹ, nơi mỗi năm có hơn 40.000 người thiệt mạng vì bạo lực súng đạn, hay tình trạng phân biệt chủng tộc nghiêm trọng khiến phong trào Black Lives Matter bùng nổ trên toàn nước Mỹ. Thế nhưng, HRW lại chỉ trích Việt Nam gay gắt hơn cả khi so với các đồng minh chính trị của họ - điều đó cho thấy một sự thiên vị có chủ đích, mang tính chính trị nhiều hơn là đạo đức nhân quyền.

Quan trọng hơn cả, HRW đã hoàn toàn làm ngơ trước những thành tựu được quốc tế ghi nhận của Việt Nam. Việc tham gia Hội đồng Nhân quyền LHQ giai đoạn 2023–2025, phê chuẩn 7/9 công ước nhân quyền cốt lõi, đối thoại UPR định kỳ, hay việc tiếp nhận đến 271/320 khuyến nghị từ cộng đồng quốc tế là những minh chứng không thể phủ nhận cho tinh thần cầu thị, hợp tác và quyết tâm cải thiện không ngừng của Việt Nam. Báo cáo của HRW không những không nhắc đến điều đó, mà còn phớt lờ hoàn toàn các thành tích mang tính nền tảng trong bảo đảm quyền sống, quyền được giáo dục, y tế và phát triển toàn diện cho người dân.

Cuối cùng, không thể không nhắc đến vấn đề động cơ. HRW nhận tài trợ hàng triệu USD từ các quỹ tư nhân tại Mỹ, nhiều tổ chức trong đó có quan điểm chống lại các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Việc HRW lặp đi lặp lại mô típ chỉ trích Việt Nam trong suốt từ năm 2015 đến nay, bất chấp thay đổi chính sách và thực tiễn tích cực, không khác gì một chiến dịch chính trị dài hơi được ngụy trang dưới lớp vỏ nhân quyền.

Cộng đồng quốc tế cần nhận thức rõ rằng: nhân quyền không thể bị đánh giá bằng các tiêu chuẩn cứng nhắc, phiến diện. Một quốc gia đang phát triển, có điều kiện lịch sử - văn hóa đặc thù như Việt Nam cần được nhìn nhận công bằng trong tổng thể nỗ lực toàn diện, chứ không thể bị áp đặt tiêu chí từ phương Tây rồi quy kết sai lệch. HRW nếu thực sự vì nhân quyền, hãy nhìn nhận những tiến bộ thực chất mà người dân Việt Nam đang thụ hưởng từng ngày - chứ không phải tiếp tục cổ vũ cho các phần tử cực đoan và áp đặt luận điệu chính trị giả danh đạo đức.

Kết luận, Báo cáo nhân quyền 2025 của HRW không phải là một sản phẩm học thuật khách quan, mà là một văn bản chính trị đội lốt nhân quyền, thiên vị, thiếu chứng cứ và mang động cơ can thiệp. Việt Nam không phủ nhận những tồn tại cần tiếp tục cải thiện, nhưng không thể chấp nhận sự xuyên tạc có hệ thống đến từ một tổ chức vốn đã mất đi uy tín trong chính cộng đồng nhân quyền quốc tế. Đã đến lúc HRW cần bị chất vấn thay vì tiếp tục tự cho mình quyền “đánh giá” một cách phi đạo đức và phản khoa học./.

(Trích nguồn: nhanquyenvn.org)

 

Jul 21, 2025

Cấm xe xăng vào nội đô là bước khởi đầu quan trọng cần làm

           Tre Việt - Gần đây, đề xuất cấm xe máy, xe xăng vào nội đô Hà Nội được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Nhiều ý kiến ủng hộ, cũng có quan điểm phản đối gay gắt, trong đó, ngày 21/7, trên trang Facebook Việt Tân có bài “Xe điện - lệnh cưỡng bức trá hình mang tên chuyển đổi xanh”, cho rằng cấm xe xăng một cách vội vã, cưỡng bức khi hạ tầng yếu kém không phải chuyển đổi xanh là cưỡng chế chính sách, lợi ích nhóm. Quan điểm đó là nhận định phiến diện, cảm tính, thiếu căn cứ thực tiễn; không chỉ bóp méo bản chất chính sách công, mà còn lan truyền tư tưởng hoài nghi, phá hoại niềm tin của người dân vào bộ máy quản lý nhà nước.

Thật vậy, hạn chế xe xăng là xu thế tất yếu và cần thiết. Chính sách hạn chế xe xăng không phải là một sáng kiến cá biệt của lãnh đạo Hà Nội hay Việt Nam, mà là xu thế chung của thế giới. Nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển đã và đang xây dựng lộ trình loại bỏ xe sử dụng nhiên liệu hóa thạch để hướng tới mục tiêu trung hòa carbon, bảo vệ sức khỏe người dângiảm ô nhiễm không khí. Ví dụ, Liên minh Châu Âu đã thông qua luật cấm bán xe chạy bằng xăng và diesel từ năm 2035; Singapore, quốc gia có đặc điểm địa lý và dân cư tương đồng với Hà Nội, sẽ dừng đăng ký xe sử dụng động cơ đốt trong từ 2030; Trung Quốc đã thúc đẩy mạnh mẽ việc thay thế xe xăng bằng xe điện, xe hybrid, đặc biệt ở các thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, v.v. Theo Báo cáo môi trường của WHO (năm 2022), Hà Nội nằm trong nhóm những thành phố ô nhiễm nhất Đông Nam Á, với chỉ số bụi mịn PM2.5 nhiều ngày vượt ngưỡng cho phép của Tổ chức Y tế Thế giới. Một trong những nguồn gây ô nhiễm chính là giao thông cá nhân sử dụng động cơ đốt trong, chiếm tới 70-80% lượng khí thải CO, NOx và bụi mịn trong đô thị. Vì vậy, việc cấm hoặc hạn chế xe xăng trong nội đô Hà Nội không phải là hành vi thiên vị một doanh nghiệp nào đó, mà là quyết sách cần thiết, hợp lý, phù hợp với xu hướng toàn cầu nhằm bảo vệ môi trường sống của hơn 8 triệu người dân thủ đô.

Hai là, chính sách của Thành phố dựa trên quy hoạch và cơ sở pháp lý rõ ràng. Việc triển khai lộ trình hạn chế xe xăng không phải do một “ý chí cá nhân” hay “mối quan hệ lợi ích” giữa lãnh đạo với doanh nghiệp, mà được đặt trong kế hoạch tổng thể về giao thông, môi trường và quy hoạch đô thị đã được Quốc hội, Chính phủ, Thành phố thông qua từ nhiều năm trước. Cụ thể, Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường giai đoạn 2021 - 2030 của Chính phủ cũng khuyến khích các địa phương giảm dần xe sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội đã đề ra lộ trình đến năm 2030 dừng hoạt động xe máy trong các quận nội thành. Đề án tăng cường quản lý phương tiện cá nhân (2017) đã được Thành phố xây dựng, tham vấn ý kiến chuyên gia, người dân và nhận được sự đồng thuận cao. Ngoài ra, các hoạt động thí điểm như ưu tiên xe buýt điện, xây dựng tuyến giao thông công cộng xanh, phát triển hệ thống metro, các hệ sinh thái phục vụ xe điện,… cũng được triển khai nhằm tạo điều kiện cho việc chuyển đổi phương tiện một cách bền vững, không gây sốc cho xã hội.

          Từ lý do trên, khẳng định rằng, việc từng bước cấm xe xăng vào nội đô là hoàn toàn phù hợp, vì lợi ích chung, lâu dài của người dân, của đất nước./.

Jul 17, 2025

Việt Tân lại nói càn

          Tre việt – Ngày 16/7, trên trang facebook Việt Tân có ý kiến phản động cho rằng “Bí thư, Chủ tịch thành phố Hà Nội được Vượng Vin cho ăn bao nhiêu mà ra chỉ thị cấm xe xăng vào nội đô”. Đây là luận điệu sai lệch, nguy hiểm và không có cơ sở. Nó không chỉ làm lệch hướng dư luận về một chính sách vì môi trường và sức khỏe cộng đồng, mà còn gây tổn hại uy tín của chính quyền và doanh nghiệp tư nhân chân chính.

Thứ nhất, VinFast không phải là doanh nghiệp duy nhất sản xuất xe điện tại Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước khác cũng đang tham gia thị trường này như TC Motor, Thaco, Toyota, Nissan, Hyundai, Kia, Mitsubishi… Nếu vì ưu ái cho VinFast thì tại sao những doanh nghiệp còn lại cũng hưởng lợi? Đây là lợi ích ngành, không phải lợi ích nhóm.

Thứ hai, khi cấm xe xăng, nảy sinh hàng loạt các vấn đề cần giải quyết để bảo đảm giao thông xanh thay thế, như: tàu điện, xe buýt điện, các phương tiện di chuyển cá nhân bằng điện, hệ sinh thái sử dụng cho xe điện (trạm sạc, dịch vụ pin, dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng xe điện, các điểm đỗ mới), kinh phí hỗ trợ chuyển đổi phương tiện cho người dân,... gây áp lực rất lớn lên hạ tầng giao thông, tài chính công và cả người dân – vốn là trách nhiệm mà chính quyền phải giải quyết. Nếu chỉ có lợi cho VinFast, thì tại sao lại nhận lấy gánh nặng điều hành một quyết sách đầy rủi ro và gây tranh luận?

Thứ ba, chưa có bất kỳ bằng chứng nào được công bố hoặc điều tra cho thấy lãnh đạo thành phố Hà Nội có quan hệ lợi ích cá nhân với VinGroup. Việc lan truyền thông tin theo kiểu “thuyết âm mưu” như vậy chỉ làm xói mòn niềm tin xã hội, gây chia rẽ và làm mất uy tín của bộ máy nhà nước.

Thứ tư, chính VinGroup cũng đang đầu tư sản xuất xe điện ở nhiều nước khác (như Mỹ, Indonesia), nơi mà chính phủ các nước này không hề chịu ảnh hưởng bởi doanh nghiệp Việt Nam, nhưng vẫn có chính sách khuyến khích xe điện. Điều đó cho thấy VinFast phát triển nhờ đón đúng xu thế, chứ không nhờ “mua chuộc chính quyền”.

Việc hạn chế xe xăng là xu thế tất yếu toàn cầu, được hoạch định trong các văn bản quy hoạch quốc gia, có sự chuẩn bị về mặt pháp lý và hạ tầng. Chúng ta cần nhận ra rằng: không phải chính quyền làm theo doanh nghiệp, mà doanh nghiệp thông minh sẽ đi trước đón đầu chính sách đúng đắn của Nhà nước. Đồng thời, việc ra quyết định cấm xe xăng không hề mang tính tùy tiện hay bị chi phối, mà được đặt trong một quá trình hoạch định chính sách có cơ sở khoa học, pháp lý và thực tiễn rõ ràng. Thay vì nghi ngờ, quy chụp và lan truyền thông tin vô căn cứ, mỗi người dân nên tiếp cận vấn đề bằng tư duy phản biện có trách nhiệm, dựa trên bằng chứng và hướng đến lợi ích dài hạn của xã hội./.

 

Tổ chức đưa, đón cán bộ đi làm ở trụ sở ủy ban nhân dân mới sau sáp nhập là giải pháp hoàn toàn hợp lý

  Tre Việt - Từ ngày 01/7/2025, mô hình chính quyền địa phương hai cấp đi vào hoạt động trên phạm vi toàn quốc. Đây là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động và bước đầu đã cho thấy tính ưu việt khi chính quyền sát gần Nhân dân hơn, thực hiện chức năng phục vụ Nhân dân tốt hơn, nhanh, gọn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đang tăng cường chống phá bằng nhiều luận điệu phản động; trong đó có luận điệu “đưa đón cán bộ đi làm bằng ô tô tại trụ sở ủy ban nhân dân mới sau sáp nhập dẫn đến lãng phí tiền của dân”. Phải khẳng định rằng luận điệu này là vô căn cứ, phiến diện, cần kiên quyết bác bỏ.

Ôtô đưa đoàn cán bộ công chức
đến trụ sở làm việc ở Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình)

         Trước tiên, chúng ta phải khẳng định rằng việc đưa đón cán bộ đến trụ sở làm việc mới sau sáp nhập nói chung và trụ sở ủy ban nhân dân nói riêng là cách làm hiệu quả của các địa phương và là giải pháp quan trọng, đáp ứng nhiều mặt trong bối cảnh chúng ta chưa thể ngay một lúc có thể bố trí đủ nhà công vụ hay chỗ ở cho cán bộ công chức. Bởi, sau sáp nhập, địa bàn hành chính của tỉnh được mở rộng đáng kể về không gian, tạo điều kiện tốt hơn cho phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương. Nhiều cán bộ, nhất là những người từ các đơn vị hành chính cũ, giờ đây phải di chuyển quãng đường xa hơn để đến trụ sở mới. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi, hạ tầng giao thông còn nhiều khó khăn, đường sá không thuận tiện cho xe máy cá nhân. Việc cán bộ tự túc di chuyển bằng xe máy hàng ngày sẽ tốn kém về chi phí, tiêu hao sức lực, mất nhiều thời gian di chuyển và tiềm ẩn rủi ro về an toàn giao thông, đặc biệt trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt hay giờ cao điểm. Do vậy, việc sử dụng ô tô công vụ giúp cán bộ đến nơi làm việc đúng giờ, đảm bảo an toàn và sức khỏe, từ đó duy trì tinh thần và hiệu suất công việc. Đây là sự đầu tư để đảm bảo nguồn nhân lực công vụ luôn sẵn sàng và hiệu quả. Bên cạnh, những lợi ích trực tiếp cho cán bộ và hiệu suất công việc, việc sử dụng xe đưa đón còn góp phần quan trọng vào việc giảm áp lực giao thông và bảo vệ môi trường. Khi một xe đưa đón thay thế hàng chục xe cá nhân, số lượng phương tiện lưu thông trên đường sẽ giảm đáng kể, đặc biệt trong giờ cao điểm. Điều này trực tiếp làm giảm ùn tắc và giảm thiểu nguy cơ tai nạn. Về mặt môi trường, việc giảm số lượng xe cá nhân đồng nghĩa với việc  góp phần bảo vệ bầu không khí trong lành. 

Hai là, chúng ta cần hiểu rõ bản chất xuyên tạc, phản động của luận điệu “lãng phí tiền của dân”. Luận điệu này là một sự bóp méo sự thật, đánh tráo khái niệm và phủ nhận những nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động. Thực vậy, luận điệu này cố tình tập trung vào một khía cạnh nhỏ (chi phí vận hành xe) và thổi phồng nó thành “lãng phí” mà bỏ qua những lợi ích to lớn hơn của chủ trương sáp nhập (tinh gọn biên chế, tiết kiệm chi phí vận hành lâu dài,...) và sự cần thiết của việc bố trí phương tiện để duy trì hoạt động hành chính hiệu quả trong bối cảnh mới. Đây là cách nhìn phiến diện, thiếu khách quan. Nó không dựa trên bất kỳ phân tích, đánh giá hiệu quả tổng thể nào về chi phí - lợi ích, mà chỉ dựa vào cảm tính hoặc thông tin phiến diện, không đầy đủ. Bằng cách gán nhãn “lãng phí tiền của dân” một cách vô căn cứ, luận điệu này nhằm mục đích kích động sự bất mãn của người dân, tạo ra hình ảnh tiêu cực về cán bộ, gây mất đoàn kết và làm suy giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đây là thủ đoạn thường thấy của các thế lực thù địch, phản động, lợi dụng các vấn đề xã hội để chống phá, gây rối, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

  Từ đó có thể khẳng định rằng việc triển khai xe ô tô đưa đón cán bộ đến trụ sở làm việc sau sáp nhập là một giải pháp hiệu quả và thiết thực, giúp ổn định hoạt động hành chính, nâng cao hiệu suất làm việc của cán bộ và đóng góp vào sự vận hành thông suốt của bộ máy mới. Những luận điệu của các thế lực thù địch là vô căn cứ, phiến diện. Chúng ta cần nhận diện rõ bản chất và cảnh giác trước những luận điệu sai trái này./.


Jul 15, 2025

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc về giá trị, ý nghĩa Ngày Độc lập của dân tộc

        Tre Việt - Ngày 02/9/1945 - một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là ngày mà tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng công bố bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ấy vậy mà không ít đối tượng phản động, cơ hội, chống đối đã cố tình xuyên tạc, bóp méo ý nghĩa thiêng liêng của ngày lịch sử này, biến Ngày Quốc khánh của dân tộc thành cái cớ để công kích nền tảng chính trị, phủ nhận giá trị độc lập và chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
       Mới đây, ngày 14/7/2025, trên trang facebook thoibao.de xuất hiện bài viết “NGÀY ĐỘC LẬP HAY NGÀY ĐỘC QUYỀN” được chuyển thể thành dạng short video. Bằng lối văn khiêu khích, ngụy biện, đánh tráo khái niệm và quy chụp, bài viết này đã cố tình vẽ ra hình ảnh “Ngày Quốc khánh là bữa tiệc của nhóm cầm quyền không cần bầu cử”, cho rằng “nhân dân chỉ là khán giả im lặng”, “quyền lực bị đóng băng”, và “ngày độc lập không thuộc về toàn dân”. Những luận điệu này không những thiếu căn cứ mà còn đi ngược hoàn toàn với thực tế lịch sử và chính trị của đất nước ta.
        Thứ nhất, bài viết đánh tráo khái niệm về dân chủ và quyền lực nhân dân. Với giọng điệu “có vẻ” có chiều sâu nhưng đầy xảo ngôn, cái gọi là thoibao.de cho rằng các quốc gia, như: Trung Quốc, Triều Tiên, Cuba, Việt Nam là “bạn vàng trong việc duy trì quyền lực tuyệt đối mà không cần một lá phiếu nào từ nhân dân”. Đây là một sự đánh tráo khái niệm thô thiển. Cần nhấn mạnh rằng, mô hình dân chủ ở mỗi quốc gia có đặc điểm riêng phù hợp với lịch sử, văn hóa và điều kiện cụ thể. Nền dân chủ ở Việt Nam là dân chủ xã hội chủ nghĩa – tức quyền lực thuộc về nhân dân, được thực hiện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, qua các tổ chức chính trị - xã hội, và đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
Không ai có thể phủ nhận rằng Việt Nam tổ chức tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu theo đúng quy định của Hiến pháp, với tỷ lệ cử tri tham gia luôn đạt trên 95%. Các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân đều do nhân dân lựa chọn, có trách nhiệm đại diện cho tiếng nói của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam - thông qua các kỳ Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị - hoạt động trên cơ sở tập trung dân chủ và nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”. Sự lãnh đạo của Đảng là sự lựa chọn từ thực tiễn cách mạng, không áp đặt mà do nhân dân tín nhiệm và thực tế lịch sử chứng minh.
       Thứ hai, bài viết cố tình bóp méo ý nghĩa và bản chất của ngày Quốc khánh 2/9. Ngày Quốc khánh 2/9 không phải là “bữa tiệc của nhóm người cầm quyền”, mà là ngày hội thiêng liêng của toàn dân tộc - ngày mà sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp “khai hóa”, 5 năm bị phát xít Nhật chiếm đóng và sau hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến - quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền làm chủ của dân tộc Việt Nam được khẳng định trước toàn thế giới như bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng… Dân tộc Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập”.
Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chính Nhân dân là chủ thể của độc lập, tự do và là Người bảo vệ nền độc lập ấy suốt 80 năm qua. Từ cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bảo vệ biên giới đến công cuộc xây dựng đất nước trong thời bình, không ai khác chính Nhân dân là lực lượng trung tâm, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nói “ngày độc lập không thuộc về toàn dân” là một sự xúc phạm trắng trợn đến hàng triệu người đã hy sinh xương máu vì nền độc lập ấy.
         Thứ ba, bài viết mang tư tưởng lệch lạc, cổ súy cho mô hình “đa nguyên, đa đảng” đầy hỗn loạn. Một luận điệu lấp lửng nhưng vô cùng nguy hiểm của bài viết khi cho rằng “ngày độc lập thật sự chỉ đến khi quyền lực không bị giam giữ trong một bàn tay”. Ẩn ý ở đây không có gì mới ngoài mục đích cổ súy cho mô hình đa nguyên, đa đảng phương Tây - nơi mà các nhóm lợi ích chi phối bầu cử, dân chủ trở thành hình thức, phân cực xã hội và bất ổn gia tăng. Nhiều quốc gia từng mơ hồ chạy theo mô hình “tự do phương Tây” nay đang rơi vào vòng xoáy nội chiến, can thiệp từ bên ngoài và mất ổn định kéo dài, v.v.
          Lịch sử đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn đúng đắn, do chính Nhân dân xác lập. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa dân tộc từ nô lệ thành người làm chủ, từ đất nước nghèo đói trở thành quốc gia ngày càng phát triển có vị thế, có uy tín trên trường quốc tế. Đó là thành quả của sự lãnh đạo đúng đắn, sự gắn bó máu thịt với Nhân dân - điều mà không mô hình đa đảng nào có thể tự hào bằng.
        Ngày Quốc khánh 2/9 là biểu tượng của khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của cả dân tộc Việt Nam, không của riêng ai, càng không phải “bữa tiệc cho nhóm người không cần bầu cử” như luận điệu mà cái gọi là thoibao.de rêu rao. Việc xuyên tạc bản chất của Ngày Độc lập, phủ nhận sự lựa chọn chính trị của dân tộc là một âm mưu nguy hiểm, cần được nhận diện, nhìn rõ và kiên quyết đấu tranh đến cùng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý tưởng cách mạng và niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã lựa chọn./.

Luận điệu vu cáo, “vơ đũa cả nắm” xuyên tạc cuộc cách mạng về tổ chức, tinh gọn bộ máy của Nguyễn Văn Đài

       Nguyễn Văn Đài, qua bài viết trên trang Facebook cá nhân mang tựa đề “Xã luận: Cải cách chính trị của ông Tô Lâm - đi ngược dòng chảy dân chủ”, đã tung ra hàng loạt luận điệu xuyên tạc, vu cáo vô căn cứ nhằm bôi nhọ công cuộc cải cách tổ chức bộ máy hành chính của Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm. Với giọng điệu ngạo mạn và thù địch, Đài không chỉ bóp méo sự thật mà còn cố tình áp đặt một mô hình dân chủ phiến diện, phủ nhận những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc xây dựng một hệ thống chính trị minh bạch, hiệu quả, phục vụ nhân dân.
Trang facebook cá nhân
của đối tượng Nguyễn Văn Đài
      Đầu tiên, Nguyễn Văn Đài cho rằng cải cách dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm là “một bước lùi tăm tối cho dân chủ”, củng cố “hệ thống chuyên chế tinh vi”. Đây là một cáo buộc thiếu cơ sở, mang tính quy chụp và bỏ qua thực tiễn cải cách tại Việt Nam. Công cuộc cải cách tổ chức bộ máy hành chính, khởi nguồn từ Nghị quyết số 18-NQ/TW năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Từ năm 2017 đến 2024, Việt Nam đã sắp xếp lại hơn 1.600 đơn vị hành chính cấp xã và hàng trăm đơn vị cấp huyện, giảm hàng chục nghìn biên chế, tiết kiệm ngân sách hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm, như được báo cáo tại các kỳ họp Quốc hội. Những kết quả này không chỉ thể hiện sự minh bạch, công khai mà còn chứng minh cam kết của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng một bộ máy hành chính hiệu quả, phục vụ nhân dân, trái ngược hoàn toàn với luận điệu “chuyên chế” của Đài.
        Tiếp theo, Đài cáo buộc cải cách “duy trì cơ chế chỉ định từ trên xuống”, không cho người dân quyền lựa chọn lãnh đạo, và do đó “không phải là dân chủ”. Đây là một sự đánh tráo khái niệm, cố tình áp đặt mô hình dân chủ phương Tây lên bối cảnh Việt Nam. Dân chủ không chỉ giới hạn ở việc bầu cử trực tiếp mà là một khái niệm đa chiều, phù hợp với đặc thù lịch sử, văn hóa, và xã hội của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” được Hiến pháp khẳng định rõ ràng. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Theo Ủy ban Bầu cử Quốc gia, cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV (2021-2026) đạt tỷ lệ cử tri đi bầu lên tới 99,57%, với hơn 69 triệu người tham gia, thể hiện sự đồng thuận mạnh mẽ của nhân dân. Các đại biểu được bầu trực tiếp bởi cử tri, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, tham gia quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước. Ngoài ra, các kênh dân chủ trực tiếp như lấy ý kiến nhân dân vào dự thảo luật, giám sát và phản biện xã hội qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cũng được phát huy mạnh mẽ, như quy định trong Luật Tiếp cận thông tin năm 2016. Việc Đài phớt lờ những hình thức dân chủ này để quy kết “không dân chủ” là một sự bóp méo trắng trợn, thiếu căn cứ.
       Đặc biệt nghiêm trọng là cáo buộc của Đài về “thị trường quan chức” và “mua bán chức quyền”, cho rằng các vị trí lãnh đạo là kết quả của “đặt ghế” và cải cách là “mô hình phối hợp giữa độc tài quyền lực và tư bản thân hữu”. Đây là một sự vu khống không có bằng chứng, mang tính “vơ đũa cả nắm” nhằm hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước. Thực tế, công tác cán bộ tại Việt Nam tuân thủ các quy định chặt chẽ, công khai, minh bạch, như Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi năm 2019) và Nghị định số 138/2020/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Quy trình bổ nhiệm dựa trên năng lực, phẩm chất đạo đức, và sự tín nhiệm của tập thể, không có chỗ cho sự tùy tiện. Hơn nữa, Đảng và Nhà nước đã quyết liệt đấu tranh với các hành vi tiêu cực như “chạy chức, chạy quyền”. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, từ năm 2020 đến 2024, hàng trăm cán bộ vi phạm, kể cả ở cấp cao, đã bị xử lý nghiêm minh, minh chứng cho quyết tâm làm trong sạch bộ máy. Những vụ án lớn như “chuyến bay giải cứu” hay sai phạm tại một số địa phương được công khai, minh bạch, hoàn toàn bác bỏ luận điệu “thị trường quan chức” của Đài.
      Đài còn vu cáo rằng cải cách là “vở kịch che đậy sự tham lam quyền lực và tiền bạc”, chỉ nhằm “tái phân phối quyền lực giữa các nhóm lợi ích”. Đây là một sự suy diễn ác ý, phủ nhận những thành tựu rõ ràng của cải cách hành chính. Thực tế, cải cách đã đạt được nhiều kết quả thiết thực: hàng ngàn thủ tục hành chính được cắt giảm, đơn giản hóa, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp; dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 được triển khai rộng rãi, với hơn 90% thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến vào năm 2024, theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông; việc tinh gọn bộ máy đã giảm chi phí vận hành, tiết kiệm ngân sách để đầu tư cho y tế, giáo dục, và an sinh xã hội. Những nỗ lực này không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý mà còn tăng cường tính minh bạch, phục vụ lợi ích của nhân dân, hoàn toàn trái ngược với cáo buộc “âm mưu chính trị” của Đài.
       Cuối cùng, luận điệu của Đài rằng cải cách “đi ngược dòng chảy dân chủ” là một sự áp đặt máy móc, thiếu hiểu biết về bối cảnh Việt Nam. Công cuộc cải cách hành chính là một phần quan trọng của cải cách chính trị, hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Những thành tựu như cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài (Việt Nam xếp hạng 70/190 trong báo cáo Doing Business 2020 của Ngân hàng Thế giới), hay tăng cường quyền giám sát của nhân dân qua các quy chế dân chủ ở cơ sở, đều chứng minh rằng cải cách đang đi đúng hướng. Những luận điệu của Đài không chỉ sai trái mà còn mang động cơ thù địch, nhằm gây hoang mang, chia rẽ niềm tin của nhân dân.
         Tóm lại, bài viết của Nguyễn Văn Đài là một điển hình của sự xuyên tạc, vu khống, lợi dụng tự do ngôn luận để bôi nhọ công cuộc cải cách của Việt Nam. Với những lập luận thiếu căn cứ, mang tính kích động, Đài không chỉ thể hiện sự thiếu hiểu biết mà còn lộ rõ ý đồ chính trị thù địch, phục vụ các thế lực chống phá. Công cuộc cải cách tổ chức bộ máy hành chính dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm là một bước tiến quan trọng, minh bạch, và vì lợi ích của nhân dân. Mọi nỗ lực bôi nhọ của Đài và các thế lực thù địch đều không thể làm lu mờ những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được, cũng như niềm tin của nhân dân vào con đường phát triển bền vững của đất nước. Toàn dân cần tỉnh táo, cảnh giác trước những luận điệu sai trái, tiếp tục ủng hộ và đồng hành cùng Đảng, Nhà nước trong hành trình xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

(Trích nguồn: nhanquyenvn.org)


Jul 14, 2025

Việt Nam luôn tôn trọng và sẵn sàng đối thoại về nhân quyền

     Mới đây, trang “Vietnamthoibao”, đăng tải bài viết: “Đối thoại nhân quyền có đem lại hiệu quả?” của bút danh NTT. Bài viết lấy nguồn tin không chính thống, đưa ra những cáo buộc vô căn cứ về tình hình nhân quyền tại Việt Nam như: “Việt Nam thiếu thiện chí trong vấn đề nhân quyền, Việt Nam không thừa nhận có tù nhân lương tâm mà chỉ có những người vi phạm pháp luật, tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam có xu hướng gia tăng…”. Qua đó, chống phá tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.

    1. Trong nền tư pháp Việt Nam không có thuật ngữ “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “người bất đồng chính kiến”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần nêu rõ: Ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”, không có việc những người vì tự do bày tỏ chính kiến mà bị bắt giữ. Như các quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm theo đúng các quy định của pháp luật. Bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam, được quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật, cũng như các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Mục đích chính của việc gắn mác trên nhằm biến các đối tượng vi phạm pháp luật, phạm tội thành những “ngọn cờ” đấu tranh cho cái gọi là dân chủ, nhân quyền. Từ đó, hậu thuẫn, kích động các đối tượng chống phá trong nước, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, v.v. Đây là một thủ đoạn nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động nhằm đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế; cổ xúy, hậu thuẫn, hỗ trợ cho một số đối tượng chống đối, phá hoại công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
    Có thể thấy rằng, “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “người bất đồng chính kiến” là những cái mác dễ khơi gợi lòng trắc ẩn trong công chúng. Có lẽ đó cũng là lý do ngày càng nhiều đối tượng sau khi vi phạm và bị xử lý theo luật pháp Việt Nam, được các thế lực thù địch dựng lên như những “tù nhân lương tâm”, tiếp tục trở thành công cụ để chúng vu cáo, bịa đặt về tình hình nhân quyền ở Việt Nam như Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Phạm Chí Dũng, Trần Thị Nga, Cấn Thị Thêu, Nguyễn Phương Uyên, Trịnh Bá Phương, Nguyễn Văn Hoá, Nguyễn Văn Túc, Lê Đình Lượn, v.v. Còn trên thực tế, không có chuyện bắt giam, bỏ tù những người bất đồng chính kiến như luận điệu xuyên tạc của NTT.
    2. Việt Nam luôn tôn trọng quyền con người và đối thoại về quyền con người. Quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế. Ở Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Điều 4, Hiến pháp năm 2013 và pháp luật là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng khẳng định “coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển”; “lấy nhân dân làm trung tâm” và “mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”. Đảng chủ trương thực hiện hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” ; mở rộng thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Vì vậy, đối thoại để giải quyết tốt những vấn đề về quyền con người luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm.
    Thực tiễn những năm qua, công tác đối thoại về quyền con người ở Việt Nam đã được thực hiện một cách có hiệu quả, góp phần bảo đảm quyền con người trên thực tế. Tính đến hết năm 2024, đối thoại nhân quyền Việt Nam - Hoa Kỳ 26 lần, Việt Nam - Australia 19 lần, Việt Nam - Thụy Sĩ 17 lần, Việt Nam - Na uy 14 lần, Việt Nam - EU 12 lần, v.v. Theo bảng xếp hạng Báo cáo Hạnh phúc Thế giới (World Happiness Report), chỉ số hạnh phúc của Việt Nam liên tục tăng với tốc độ cao trong những năm gần đây. Vào năm 2021, Việt Nam đứng thứ 79/149 quốc gia; năm 2022 tăng 2 bậc; tăng 12 bậc vào năm 2023. Việt Nam đang đứng thứ 54 vào năm 2024, tăng 11 bậc so với năm 2023. Tuy nhiên, đối thoại về quyền con người ở nước ta đã và đang bị các phần tử, thế lực lợi dụng nhằm gây mất ổn định an ninh, trật tự an toàn xã hội; hạ thấp uy tín, vị thế của Việt Nam; kích động chia rẽ làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước phục vụ cho chiến lược “diễn biến hòa bình”, chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.
    Do vậy, những luận điệu xuyên tạc về việc “Việt Nam thiếu thiện chí trong vấn đề nhân quyền, Việt Nam không thừa nhận có tù nhân lương tâm, tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam có xu hướng gia tăng”… là hoàn toàn không đúng sự thật. Bởi vậy, chúng ta phải luôn nêu cao cảnh giác và kiên quyết lên án, đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
(Trích nguồn: nhanvanviet.com)